Ca huế, một thể loại âm nhạc cổ truyền độc đáo

Các nhà nghiên cứu lý luận âm nhạc

Việt Nam cho rằng, kho tàng Âm nhạc cổ

truyền được phân thành hai bộ phận: Cổ

truyền dân gian là toàn bộ thể loại nhạc hát

- dân ca, nhạc đàn - dân nhạc do các tộc

người sinh sống trên đất nước Việt Nam

sáng tạo và lưu truyền bằng hình thức

truyền khẩu, phi văn bản, không kiếm sống

bằng nghề ca hát và cổ truyền chuyên

nghiệp gồm các thể loại dân ca dân nhạc

nhưng mang tính chuyên nghiệp - tiêu chí

hành nghề có bài bản và một phần nào đó

có văn bản, Với cách phân chia đó, âm

nhạc cổ truyền Huế cũng được xếp vào hai

dòng: Dòng cổ truyền dân gian bao gồm

các thể loại tiêu biểu: Hò, Vè, Lý, Hát ru

con, Hát hầu văn, Ngâm thơ, và Dòng cổ

truyền chuyên nghiệp bao gồm Ca đàn Huế

(còn gọi là nhạc cổ thính phòng Huế, hoặc

gọi là Ca Huế) và âm nhạc cung đình Huế.

Có một thể loại âm nhạc cổ truyền gắn liền

với tổng thể văn hóa Huế, nơi một thời là

kinh đô phồn thịnh của Việt Nam, đó là ca

Huế. Ca Huế là một trong ba thể loại âm

nhạc thính phòng tiêu biểu của Việt Nam,

nó có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm

nhạc cung đình và âm nhạc dân gian [4,

tr.3]. Năm 2015, ca Huế được Bộ văn hóa

Thể thao và Du lịch quyết định công nhận

là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia [9].

pdf 6 trang kimcuc 8480
Bạn đang xem tài liệu "Ca huế, một thể loại âm nhạc cổ truyền độc đáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ca huế, một thể loại âm nhạc cổ truyền độc đáo

Ca huế, một thể loại âm nhạc cổ truyền độc đáo
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Trương Ngọc Thắng 
96 
CA HUẾ, MỘT THỂ LOẠI ÂM NHẠC CỔ TRUYỀN ĐỘC ĐÁO 
CA HUE, A GENRE OF TRADITIONAL MUSIC UNIQUE 
TRƯƠNG NGỌC THẮNG 
 PGS.TS.NGUT. Trường Đại học Văn Lang, truongngocthang@vanlanguni.edu.vn 
Mã số: TCKH13-04-2019 
TÓM TẮT: Có một thể loại âm nhạc cổ truyền gắn liền với tổng thể văn hóa Huế, nơi một 
thời là kinh đô phồn thịnh của Việt Nam, đó là ca Huế, một trong ba thể loại âm nhạc 
thính phòng tiêu biểu của Việt Nam, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm nhạc cung đình 
và âm nhạc dân gian. 
Từ khóa: ca Huế; cung đình; chuyên nghiệp; dân gian. 
ABSTRACT: There is a traditional music genre associated with the whole of Hue culture, 
in which was once the thriving capital of Vietnam. It is Ca Hue, one of the three genres of 
chamber music of Vietnam, having a fine combination of royal music and folk music. 
Key words: Ca Hue; royal; profession; folk. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Các nhà nghiên cứu lý luận âm nhạc 
Việt Nam cho rằng, kho tàng Âm nhạc cổ 
truyền được phân thành hai bộ phận: Cổ 
truyền dân gian là toàn bộ thể loại nhạc hát 
- dân ca, nhạc đàn - dân nhạc do các tộc 
người sinh sống trên đất nước Việt Nam 
sáng tạo và lưu truyền bằng hình thức 
truyền khẩu, phi văn bản, không kiếm sống 
bằng nghề ca hát và cổ truyền chuyên 
nghiệp gồm các thể loại dân ca dân nhạc 
nhưng mang tính chuyên nghiệp - tiêu chí 
hành nghề có bài bản và một phần nào đó 
có văn bản,Với cách phân chia đó, âm 
nhạc cổ truyền Huế cũng được xếp vào hai 
dòng: Dòng cổ truyền dân gian bao gồm 
các thể loại tiêu biểu: Hò, Vè, Lý, Hát ru 
con, Hát hầu văn, Ngâm thơ, và Dòng cổ 
truyền chuyên nghiệp bao gồm Ca đàn Huế 
(còn gọi là nhạc cổ thính phòng Huế, hoặc 
gọi là Ca Huế) và âm nhạc cung đình Huế. 
Có một thể loại âm nhạc cổ truyền gắn liền 
với tổng thể văn hóa Huế, nơi một thời là 
kinh đô phồn thịnh của Việt Nam, đó là ca 
Huế. Ca Huế là một trong ba thể loại âm 
nhạc thính phòng tiêu biểu của Việt Nam, 
nó có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm 
nhạc cung đình và âm nhạc dân gian [4, 
tr.3]. Năm 2015, ca Huế được Bộ văn hóa 
Thể thao và Du lịch quyết định công nhận 
là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia [9]. 
2. NGHỆ THUẬT CA HUẾ 
2.1. Hệ thống bài bản 
Ca Huế gồm khoảng 60 tác phẩm thanh 
nhạc và khí nhạc theo hai điệu thức lớn là 
điệu Bắc, điệu Nam với 3 loại hơi: Hơi 
khách (trang nghiêm, vui vẻ, linh hoạt), Hơi 
ai (nhớ nhung, thương cảm), Hơi dựng, hơi 
xuân, (bâng khuâng, lưu luyến, gửi gắm tâm 
tình) với các bài bản tiêu biểu: “Thuộc cung 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 13, Tháng 01 - 2019 
97 
Bắc hơi khách có: Lưu thủy, Ngũ đối 
(Thượng hạ) Long ngâm, Cổ bản, Lộng 
điệp, Phú lục (Nhanh, chậm), Mười bản Tàu 
(Liên bộ thập chương) Phẩm tuyết, Nguyên 
tiêu, Hồ quảng, Bình bán, Tây mai, Liên 
hườn, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ, Tẩu 
mã, thuộc cung Nam ai (hơi ai) Nam ai, 
Nam bình, Quả phụ, Tương tư khúc, thuộc 
Cung Nam (hơi dựng) Hành vân, Nam xuân, 
Cổ bản dựng, Tứ đại cảnh” [7, tr.26-27]. 
Ca Huế được cấu trúc chặt chẽ, nghiêm 
ngặt, trải qua quá trình phát triển lâu dài đã 
trở thành nhạc cổ điển hoàn chỉnh, mang 
nhiều yếu tố “chuyên nghiệp”. Phần lời của 
Ca Huế thường có trước rồi mới sinh ra 
nhạc đàn, vì vậy, đi liền với ca Huế là dàn 
nhạc truyền thống với 5 nhạc cụ hay còn 
gọi là bộ ngũ tuyệt gồm Tranh, Tỳ, Nhị, 
Nguyệt, Tam, xen với Bầu, Sáo và bộ gõ 
trống Huế, song loan (song lang hay song 
lan), sênh tiền. Ca Huế hình thành từ dòng 
ca nhạc dân gian và dòng ca nhạc cung 
đình, nhã nhạc trang trọng uy nghi nên có 
thần thái của ca nhạc thính phòng, thể hiện 
theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, 
với trên 60 tác phẩm thanh nhạc và khí 
nhạc. Thú nghe ca Huế tao nhã, đầy sức 
quyến rũ. Với kỹ thuật đàn và hát, ca Huế 
đặc biệt tinh tế nhưng ca Huế lại mang 
đậm sắc thái địa phương, phát sinh từ tiếng 
nói, giọng nói của người Huế nên gần gũi 
với Hò Huế, Lý Huế; là chiếc cầu nối giữa 
nhạc cung đình và âm nhạc dân gian. [8]. 
Nếu Ả đào là dòng âm nhạc dân gian 
chuyên nghiệp thành đạt ở kinh đô Thăng 
Long xưa dưới thời vua Lê - chúa Trịnh, thì 
kinh đô Phú Xuân sau này, từ trong dinh 
phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong 
hình thành một lối hát gọi là ca Huế. Như 
vậy, cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát 
“Ả đào” của người Huế, một lối chơi của 
các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm 
tiếp biến trong tiến trình của một lối hát 
truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng 
Long đến Phú Xuân - Huế. 
Hình 1. Biểu diễn Ca Huế 
Nguồn Google 4-2018 
Hình 2. Biểu diễn ca Huế mừng xuân mới 
Nguồn Thừa Thiên Huế Online 17-2-2018 
Trong âm nhạc cổ truyền xứ Huế, Ca 
Huế thuộc thành phần cổ truyền chuyên 
nghiệp, mang sắc thái địa phương rõ nét 
bởi nó gắn chặt với đặc điểm ngữ âm, ngữ 
điệu của giọng nói xứ Huế, là kết quả của 
mối quan hệ gắn bó với nền âm nhạc dân 
gian xứ Huế, nơi mà hai thành phần âm 
nhạc cổ truyền chuyên nghiệp (nhạc Cung 
đình, Ca Huế) và cổ truyền dân gian (dân 
ca: Hò, Lý,...) thường xuyên tác động qua 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Trương Ngọc Thắng 
98 
lại, gắn bó, thâm nhập, thúc đẩy lẫn nhau 
trong quá trình phát triển. 
Mặc dầu gắn với địa danh xứ Huế nhưng 
Ca Huế không chỉ bó hẹp trong xứ Huế mà là 
sự khởi nguyên từ văn hóa nghệ thuật cội 
nguồn Thăng Long, hội tụ từ truyền thống văn 
hóa âm nhạc của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, 
khi thịnh đạt đã lan tỏa trở lại với cội nguồn, 
thâm nhập và trở thành một thành phần tương 
hợp trong hầu hết dân ca vùng Trung du và 
Đồng bằng Bắc Bộ. Ca Huế phát triển về phía 
Nam thì rõ ràng đã sản sinh ra lối nhạc tài tử 
như nhà nghiên cứu GS. Trần Văn Khê nhận 
xét: “lối "nhạc tài tử” trong Nam là con đẻ 
của lối “ca Huế” miền Trung”,... "Những 
người học nhạc trong Nam, cũng “đàn Huế” - 
Ông nội chúng tôi, ông Trần Quang Diệm 
chuyên đàn tì bà theo lối Huế và cô ruột 
chúng tôi bà Trần Ngọc Viện cũng thường 
đàn Cổ bản Huế, Kim tiền Huế,...” [1, tr.1]. 
 “Chúng ta cũng cần nhận định rằng, ca 
Huế là ca nhạc thính phòng, người ca, người 
đàn cùng người thưởng thức là những khách tri 
âm. Đây là một thứ nghệ thuật tao nhã của 
tầng lớp tao nhân mặc khách ở chốn cung đình 
có cuộc sống phong lưu, tâm hồn khoáng đạt 
tài năng thiên phú. Xét âm nhạc các bài ca 
Huế, ta thấy rõ là các giai điệu hoàn chỉnh. Ca 
Huế vừa là thanh nhạc vừa là khí nhạc kết hợp 
với nhau trong một hệ thống những bài bản 
cấu trúc chặt chẽ nghiêm ngặt. Ca Huế là loại 
ca nhạc cổ điển, nó có cơ hội hình thành ở một 
vùng đất có điều kiện kinh tế văn hoá phát 
triển, giàu có về thơ ca, đầy tính chất trữ tình. 
Xét về những điều kiện ấy, Thuận Hóa quả là 
địa điểm thích hợp nhất hội đủ các yếu tố để ca 
Huế sống được và phát triển” [2, tr.3]. 
2.2. Cổ truyền dân gian 
Hò thường gắn với sinh hoạt, nhịp điệu 
lao động cụ thể của từng công việc và được 
dân gian đặt tên như Hò ô được dùng khi 
đạp nước, nhổ cỏ, đi bừa hay đi theo trâu 
làm việc trong đêm, hò giã gạo (hay hò 
khoan) phổ biến khắp xứ Huế khi giã gạo, 
hò lơ là điệu hò cấy lúa, hò nện (hay hò 
hụi) dùng khi nện đất, đắp nền nhà, còn 
được hò khi đắp mộ, hò quét vôi dùng khi 
quét vôi, hò kéo thác dùng khi kéo bè qua 
thác, kéo gỗ qua đèo, hò đẩy noốc (thuyền) 
dùng để khi đẩy noốc ra khỏi nơi mắc cạn, 
hò mái nhì là điệu hò trên sông nước đặc 
sắc của Huế, hò mái đẩy là điệu hò mái nhì 
với một ít biến điệu, khi được hò trên phá 
Tam Giang nước chảy xiết, điệu hò chắc 
khỏe hơn, không kéo dài như hò mái nhì, 
Nhưng tiêu biểu của thể loại hò Huế là Hò 
mái nhì gắn với dòng sông Hương êm đềm, 
thơ mộng, hò giã gạo, hò hụi gắn với nhịp 
điệu lao động của người dân khi giã gạo và 
giã vôi, nện đất đắp nền. 
Lý là một thể loại đặc sắc trong dòng 
âm nhạc cổ truyền dân gian xứ Huế. Nếu 
Hò là dân ca gắn bó với môi trường lao 
động, mang đậm yếu tố dân gian, thì Lý, 
trong âm nhạc cổ truyền xứ Huế, là sự kết 
nối giữa hai thành phần cổ truyền dân gian 
và cổ truyền chuyên nghiệp. Đây là một đặc 
điểm trong tiến trình phát triển của Ca Huế 
và cũng là một đặc điểm của nền âm nhạc 
cổ truyền xứ Huế; nơi mà hai thành phần 
âm nhạc chuyên nghiệp (nhạc Cung đình, 
Ca Huế) và thành phần dân gian (dân ca 
hò, lý,...) luôn tác động qua lại, gắn bó, 
thâm nhập, thúc đẩy, tác động lẫn nhau với 
hiện tượng dân gian hóa ở âm nhạc chuyên 
nghiệp và chuyên nghiệp hóa ở âm nhạc 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 13, Tháng 01 - 2019 
99 
dân gian xảy ra liên tục trong quá trình phát 
triển. 
Có một số ý kiến cho rằng, danh từ 
“Lý” xuất phát từ miền Trung (Huế). Theo 
quan niệm cũ, người ta gọi những bài hát 
có xuất thân là những lời ca tiếng hát của 
dân gian trong các thôn làng là những bài 
hát “Lý” (Lý tiếng Hán có nghĩa là làng), 
để phân biệt với những bài ca Huế. [6, tr. 
201], Nhiều tài liệu cho rằng Thừa Thiên 
- Huế là nơi sản sinh ra hình thức hát 
Lý,Cấu trúc của các điệu Lý ở Thừa 
Thiên - Huế ngắn gọn, súc tích, câu cú 
mạch lạc. Giai điệu trữ tình, sâu sắc, tiết 
tấu mềm mại, nhịp độ từ chậm rãi đến vừa 
phải [6, tr.202]. 
Tuy xuất xứ từ Bắc bộ nhưng vào đến 
Huế, Lý lại giàu tính nghệ thuật, đặc sắc về 
giai điệu, phong phú về bài bản và tên 
gọi, đã làm cho thể Lý ở Huế không 
những nhiều mà trở nên mang tính chuyên 
nghiệp như các điệu Lý Giang nam, Lý Hoài 
xuân, Lý Hoài nam (Lý Chiều chiều), Lý 
Vọng phu (Lý bốn mùa), Lý Tình tang,... 
2.3. Cổ truyền chuyên nghiệp - Âm nhạc 
cung đình 
Âm nhạc cung đình được Nhà nước 
phong kiến với giai cấp quý tộc Việt Nam 
hình thành để phục vụ mang tính chuyên 
nghiệp với quy mô tổ chức khá lớn, phong 
phú về bài bản và tiết mục trong dàn Đại 
nhạc và Tiểu nhạc, tuy vậy vẫn có sự giao 
lưu khăng khít với âm nhạc Dân gian, tiếp 
thu yếu tố mới từ âm nhạc Trung Hoa, 
Champa. Nhạc Cung đình là một bộ phận 
của âm nhạc truyền thống Việt Nam dùng 
trong cung đình do những nghệ sĩ dân gian 
có tay nghề cao sáng tạo và biểu diễn là 
một bộ môn âm nhạc đặc biệt vì: Chỉ còn 
lại ở Huế, được ghi vào sử sách và còn lưu 
lại bài bản bao gồm tất cả các bộ môn khác 
như Nhạc lễ, nhạc thính phòng, nhạc sân 
khấu, nhạc vũ điệu, huy động nhiều diễn 
viên, nhạc khí, trang phục,... 
Âm nhạc cung đình Huế với nhiều loại 
nhạc khác nhau như Giao nhạc, Miếu nhạc, 
Ngũ tự nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều 
nhạc, Đại yến nhạc, Cung trung chi nhạc, 
Cứu nhật nguyệt giao trùng nhạc. Thời nhà 
Thanh đã gọi Dàn nhạc thời Quang Trung 
là “An nam quốc nhạc”, đến năm 1802 đổi 
tên là “Việt Nam quốc nhạc”. 
Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại 
nhạc của cung đình thời phong kiến, được 
biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng 
quang, băng hà, các lễ hội tôn nghiêm 
khác) trong năm của các triều đại nhà 
Nguyễn của Việt Nam. Nhã nhạc cung đình 
Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt 
tác truyền khẩu và phi vật thể nhân 
loại vào năm 2003. Theo đánh giá của 
UNESCO, “trong các thể loại nhạc cổ 
truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới 
tầm vóc quốc gia”. “Nhã nhạc đã được 
phát triển từ thế kỷ 13 ở Việt Nam đến thời 
nhà Nguyễn thì Nhã nhạc Cung đình Huế 
đạt độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất” [8]. 
2.4. Tính chất, đặc điểm của Ca Huế 
Ca Huế là một bộ phận trong tổng thể 
âm nhạc Huế nói chung, bao gồm Nhạc 
cung đình, nhạc dân gian, nhạc lễ, nhạc tôn 
giáo, nhạc thính phòng,... được sử dụng và 
ưa chuộng không chỉ ở Huế mà còn ở các 
vùng xung quanh. Âm nhạc của Ca Huế 
chịu ảnh hưởng của âm nhạc Trung Hoa từ 
những người miền Bắc di dân vào gọi là 
cung Bắc hay còn gọi là khách trong các 
bài bản lưu thuỷ, phú lục, cổ bản, mười bản 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Trương Ngọc Thắng 
100 
tàu với sự linh hoạt, vui vẻ và mạnh mẽ 
hơn thích hợp với tính cách của người miền 
Bắc với cảnh đồn điền rộng rãi, sông ngòi 
mãnh liệt ở miền trung châu. Ngoài ra, ca 
Huế cùng với sự ảnh hưởng của âm nhạc 
Chiêm Thành do chúa Nguyễn khai thác bờ 
cõi gọi là cung Nam như nam ai, nam bình, 
nam xuân có vẻ ai oán, bi thương, hợp với 
tâm trạng của một dân tộc điêu tàn là dân 
tộc Chiêm Thành, cùng với cảnh non nước 
dịu dàng ở xung quanh kinh đô. “Cùng bài 
bản nhưng được diễn tấu những vùng miền 
khác nhau sẽ khác nhau ví dụ như bài Bình 
bán, Lưu thủy trong nhạc tài tử thính phòng 
Huế và Đờn ca tài tử Nam Bộ” [6, tr.50]. 
Nội dung cũng như sinh hoạt ca Huế 
gần gũi với nhân dân hơn là giai cấp thống 
trị phong kiến triều Nguyễn. Chỉ cần một 
gian phòng, một góc vườn nhỏ, trong một 
khoang đò trên dòng sông Hương, vài ba 
người ca đàn và thưởng thức là đủ cho một 
buổi ca Huế. Vì thế, ca Huế từ sinh hoạt ở 
chốn cung đình đã dần ra ngoài dân gian và 
dân gian hoá trở lại. Như vậy, ca nhạc Huế 
không thuộc về nền văn hóa của giai cấp 
thống trị mà thuộc về nền văn hóa mang 
tính chất dân chủ của nhân dân phục vụ cho 
đông đảo tầng lớp nhân dân. 
Xác định về xuất xứ trực tiếp của ca 
nhạc Huế, có thể thấy nó là một loại âm nhạc 
mang nhiều màu sắc địa phương gắn liền với 
tiếng nói của người vùng Huế - Bình Trị 
Thiên chứ không phải giọng nói từ vùng nào 
khác. Vì vậy, tên gọi của nó đã nói lên rằng 
quê hương của ca nhạc Huế chính là xứ Huế, 
tức là vùng Thuận Hoá cũ - kinh đô của Phú 
Xuân ngày trước. Có thể nói, “nơi xuất phát 
thể loại ca Huế là từ cung đình triều Nguyễn, 
xứ Huế. Thời gian xuất hiện ca Huế vào 
khoảng thế kỷ XVII-XVIII dưới thời các chúa 
Nguyễn. Ca Huế ảnh hưởng âm nhạc Chiêm 
Thành, văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, là sự 
kết hợp giữa âm nhạc bác học và âm nhạc 
dân gian” [5, tr.17] 
3. KẾT LUẬN 
Hiện nay, không gian diễn xướng Ca 
Huế chủ yếu ở thuyền rồng trên sông 
Hương hoặc vào dịp năm mới phục vụ du 
lịch, như một món quà, món ăn tinh thần 
đối với du khách khi đến Huế. Ca Huế 
không hoàn toàn bị ràng buộc bởi những 
khuôn khổ, quy tắc nghiêm ngặt của âm 
nhạc bác học, mà vẫn thể hiện tính sinh 
động, mềm dẻo của nó khi ở thính phòng 
cũng như khi lên sân khấu. Ca Huế đem lại 
cho người nghe những cảm xúc êm dịu, 
trong sáng, ca ngợi quê hương, đất nước, 
tạo nên sự đồng cảm của con người. 
GS.TS Trần Văn Khê đã nhận xét ca 
Huế, “khi thì êm dịu như hương thơm tỏa 
ra từ một bông hoa, khi thì xót xa như 
giọng người đang khóc, khi thì uể oải như 
những cái nhìn nào đó của người đàn bà 
trong những đêm hè oi ả, khi thì vui vẻ - 
trường hợp này cũng họa hoằn thôi; giống 
như tiếng lao xao của bầy chim trong mùa 
xuân, đã thấm vào thể xác và tâm hồn 
bạn, đã len vào trong mạch máu của bạn, 
làm cho khắp người bạn phải rùng mình, 
khoái trá,”[3, tr.1]. 
Ca Huế, một thể loại âm nhạc độc 
đáo với sự sâu lắng, trữ tình đã làm rung 
động, cuốn hút người nghe một cách sâu 
sắc, là một thể loại âm nhạc cổ truyền độc 
đáo không chỉ riêng của vùng Huế mà của 
Việt Nam. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 13, Tháng 01 - 2019 
101 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Báo Thừa Thiên Huế, ngày 27-12-2012. 
[2] Tôn Thất Bình (2010), Nguồn gốc sự hình thành và các giai đoạn biến chuyển ca Huế, 
Tạp chí sông Hương 3-2010. 
[3] Ca Huế Hội tụ và lan tỏa âm sắc Huế, Sở Văn hóa Thể thao Thừa Thiên Huế ngày 5-
10-2015. 
[4] Dương Bích Hà (1997), Lý Huế, Viện Âm nhạc và Nxb Âm nhạc. 
[5] Trần Kiều Lại Thủy (2017), Ca Huế từ góc nhìn văn hóa học, Hội Văn nghệ dân gian 
Việt Nam, Nxb Mỹ thuật 2017. 
[6] Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2012), Giáo trình Lịch sử âm nhạc Việt Nam, Nhạc viện Thành 
phố Hồ Chí Minh. 
[7] Văn Thanh (1989), Tìm hiểu ca Huế và Dân ca Bình Trị Thiên, Sở Văn hóa - Thông tin 
Bình Trị Thiên. 
[8] Internet (Wikipedia) 
[9] https://thethaovanhoa.vn/tin-hot-24h/ca-hue-duoc-cong-nhan-la-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-
gia-n20150615143532256.htm. 
Ngày nhận bài: 05-12-2018. Ngày biên tập xong: 26-12-2018. Duyệt đăng: 21-01-2019 

File đính kèm:

  • pdfca_hue_mot_the_loai_am_nhac_co_truyen_doc_dao.pdf