Bước đầu tìm hiểu triết lý của nghề thư viện - thông tin

Trong ngôn ngữ ở phương Tây, khái

niệm triết lý và triết học được coi là một và

ghi bằng một thuật ngữ, thí dụ “philosophy’

trong tiếng Anh [14] hoặc “Философия”-

tiếng Nga [22]. Tuy nhiên, ở nước ta, triết

học và triết lý là hai phạm trù khác nhau.

Triết học là phạm trù đã được mọi người

công nhận: một trong những hình thái ý

thức xã hội; là học thuyết về những nguyên

tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức

và của thái độ con người đối với thế giới;

là khoa học về những quy luật chung nhất

của tự nhiên, xã hội và tư duy [3].

Nhưng đối với triết lý thì vấn đề phức

tạp hơn nhiều. Có nhiều quan điểm khác

nhau về ngữ nghĩa của thuật ngữ triết lý.

Trong Từ điển Từ và ngữ Việt Nam của

GS Nguyễn Lân (2000), triết lý có một số

nghĩa: lý luận về triết học; bàn cãi suông

[8]. Còn trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng

Phê chủ biên (2010), định nghĩa về ‘’triết

lý” như sau:

- Lý luận triết học. Ví dụ: triết lý phương

Đông; triết lý của Phật giáo;

- Quan niệm chung của con người về

những vấn đề nhân sinh và xã hội. Ví dụ:

triết lý sống;

- Thuyết lý về những vấn đề nhân sinh

và xã hội (hàm ý chê). Ví dụ: tính thích triết

Lý; hay triết lý cao xa. Đồng nghĩa: thuyết

giáo, thuyết lý [13]

pdf 7 trang kimcuc 8500
Bạn đang xem tài liệu "Bước đầu tìm hiểu triết lý của nghề thư viện - thông tin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước đầu tìm hiểu triết lý của nghề thư viện - thông tin

Bước đầu tìm hiểu triết lý của nghề thư viện - thông tin
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
10 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU TRIẾT LÝ CỦA NGHỀ THƯ VIỆN-THÔNG TIN1 
1 Bài viết được chỉnh lý, bổ sung từ tham luận cùng tên tại Hội thảo “Dịch vụ thông tin - thư viện trong xã hội hiện đại” của Trường Đại học 
Văn hóa Hà Nội (tháng 11/2017).
TS Lê Văn Viết
Tóm tắt: Tìm hiểu và làm rõ khái niệm “triết lý”. Phân tích một số nghiên cứu, quan điểm về 
triết lý thư viện để tìm ra điểm chung nhất trong triết lý về nghề thư viện-thông tin ở nước ta và trên 
thế giới trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Triết lý thư viện; nghề thư viện-thông tin.
Premilinary analysis on the philosophy of librarianship
Abstract: The article provides overview on the definition of “philosophy”. It then identifies 
some common characteristics among current researches and viewpoints in Vietnam and in the world 
on the philosophy of librarianship . 
Keywords: Librarianship; philosophy; library - information occupation.
1. Khái niệm triết lý
Trong ngôn ngữ ở phương Tây, khái 
niệm triết lý và triết học được coi là một và 
ghi bằng một thuật ngữ, thí dụ “philosophy’ 
trong tiếng Anh [14] hoặc “Философия”- 
tiếng Nga [22]. Tuy nhiên, ở nước ta, triết 
học và triết lý là hai phạm trù khác nhau. 
Triết học là phạm trù đã được mọi người 
công nhận: một trong những hình thái ý 
thức xã hội; là học thuyết về những nguyên 
tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức 
và của thái độ con người đối với thế giới; 
là khoa học về những quy luật chung nhất 
của tự nhiên, xã hội và tư duy [3].
Nhưng đối với triết lý thì vấn đề phức 
tạp hơn nhiều. Có nhiều quan điểm khác 
nhau về ngữ nghĩa của thuật ngữ triết lý. 
Trong Từ điển Từ và ngữ Việt Nam của 
GS Nguyễn Lân (2000), triết lý có một số 
nghĩa: lý luận về triết học; bàn cãi suông 
[8]. Còn trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng 
Phê chủ biên (2010), định nghĩa về ‘’triết 
lý” như sau: 
- Lý luận triết học. Ví dụ: triết lý phương 
Đông; triết lý của Phật giáo;
- Quan niệm chung của con người về 
những vấn đề nhân sinh và xã hội. Ví dụ: 
triết lý sống;
- Thuyết lý về những vấn đề nhân sinh 
và xã hội (hàm ý chê). Ví dụ: tính thích triết 
Lý; hay triết lý cao xa. Đồng nghĩa: thuyết 
giáo, thuyết lý [13]. 
Như vậy, cả hai nguồn tham khảo rất 
có uy tín này đều khẳng định: triết lý, trước 
hết, là lý luận triết học. Thứ nữa mới là bàn 
cãi suông hay “quan điểm chung”, “thuyết 
lý” về những vấn đề nhân sinh và xã hội.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
11THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
Trong tác phẩm “Triết lý là gì?” [1964] 
của Karl Jaspers, một nhà tâm lý học và 
triết học nổi tiếng người Đức không đưa 
ra định nghĩa của mình về triết lý vì cho 
rằng: danh từ triết lý bao hàm một lãnh vực 
khá rộng rãi nên mới thấy nhiều nhận định 
mâu thuẫn nhau... những gì tìm tòi và chinh 
phục được ở địa hạt triết lý đều không có 
tính cách đích xác như khoa học và được 
mọi người biểu đồng tình. Chính vì thế, tồn 
tại nhiều “cố gắng định nghĩa triết lý nhưng 
không một định nghĩa nào thành công”. Và 
khi bàn về triết lý cuộc sống ông đưa ra kết 
luận: Tóm lại, không có một triết lý chung 
cho tất cả mọi người, “chỉ nhờ kinh nghiệm 
bản thân, mỗi con người mới nhận thức 
được đâu là bản chất triết lý ở đời’’ [7].
Định nghĩa của vi.wikibooks cho rằng 
“triết lý (cuộc đời)”: là những điều được rút 
tỉa bởi trải nghiệm, như một quan niệm nền 
tảng, cốt lõi trên cơ sở nhìn nhận điều gì là 
(nguồn cội tâm thế/giá trị tinh thần/sức mạnh 
ứng xử) được phát biểu ngắn gọn, xúc 
tích - Như một tín điều, làm kim chỉ nam 
cho cách xử thế, hành động hay lối sống 
của một Cá nhân hay một Cộng đồng [11].
Như vậy, từ những quan niệm nêu trên 
ta có thể khẳng định rằng triết lý không 
đồng nghĩa với triết học, triết lý là những 
điều được rút ra từ trải nghiệm, như một 
quan niệm nền tảng, cốt lõi trên cơ sở nhìn 
nhận điều gì là quan trọng; là sự đúc kết 
một cách ngắn gọn, súc tích về nguồn 
gốc, bản chất, sứ mạng ... của sự vật, hiện 
tượng nào đó. Mặc dù triết lý là của riêng 
của mỗi người, cơ quan, tổ chức nhưng nếu 
nó có tính chất triết học, nghĩa là bao quát, 
chung cho nhiều người, nhiều tổ chức thì 
triết lý đó trở thành câu kinh điển.
2. Triết lý của một nghề
Để làm rõ thế nào là triết lý của một 
nghề, chúng tôi tìm hiểu quan niệm về 
triết lý giáo dục ở Việt Nam mà trong hơn 
10 năm qua đã được bàn cãi nhiều nhưng 
cho đến nay vẫn chưa đưa ra kết luận cuối 
cùng. Có thể chia các quan điểm triết lý 
giáo dục ra làm hai dạng: 
- Triết lý giáo dục có nội dung rộng với 
các đại diện là GS VS Phạm Minh Hạc [5], 
PGS TS Trần Quang Nhiếp [15], Nguyễn 
Chương Nhiếp, đến từ Đại học Sư phạm 
Tp. Hồ Chí Minh [4]: Triết lý giáo dục là hệ 
thống những quan điểm chung nhất về bản 
chất và quy luật của giáo dục, cho rằng 
bàn về triết lý giáo dục là bàn về vấn đề 
lý luận và thực tiễn rộng lớn của khoa học 
giáo dục nói chung, là những lý lẽ, những 
quan điểm về mục tiêu, phương thức, nội 
dung, phương pháp hoạt động giáo dục 
trong xã hội.
- Triết lý giáo dục có nội dung hẹp. 
Những người theo quan điểm này cho rằng, 
triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay là: mục 
đích hay mục tiêu tối hậu của giáo dục là 
gì? Để đạt mục tiêu ấy cần phải hành động 
theo phương châm nào? Và bằng phương 
pháp nào? [4, 6].
Gần đây nhất, Phó Thủ tướng Vũ Đức 
Đam, trong khi phát biểu bổ sung sau phần 
giải trình của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và 
Đào tạo tại phiên chất vấn của đại biểu 
quốc hội chiều 16/11/2016 đã cho rằng: 
“Triết lý giáo dục của Việt Nam trước hết 
là triết lý xây dựng đất nước dân giàu nước 
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó 
là xây dựng con người Việt Nam toàn diện, 
đức trí, thể mỹ, có tinh thần dân tộc, có lòng 
yêu nước và có trách nhiệm quốc tế” [10].
Như vậy, phần lớn những người theo 
quan niệm hẹp cho rằng triết lý giáo dục 
là nằm ở mục đích (mục tiêu) giáo dục của 
một nước. Mỗi thời kỳ có mục tiêu giáo dục 
khác nhau và do đó triết lý giáo dục cũng 
khác nhau.
Về cách thể hiện của triết lý giáo dục, 
GS Nguyễn Đình Chú (2011) đặt ra một 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
12 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
câu hỏi nhưng có ý khẳng định: Có phải 
triết học thì đòi hỏi có hệ thống lý thuyết, 
hệ thống khái niệm qui mô bề thế trong khi 
triết lý thì chỉ là một vài câu nói nào đó sâu 
sắc, có tầm khái quát và có ý nghĩa triết 
học? [1].
Từ xem xét triết lý giáo dục ở Việt Nam, 
có thể cho rằng, triết lý của một ngành hoạt 
động xã hội là những câu nói, nhận định, 
tư tưởng sâu sắc, có tầm khái quát và có 
ý nghĩa triết học nhưng cô đọng, dễ hiểu 
phản ánh mục đích cốt lõi hay vị trí chủ 
đạo... của ngành hoạt động đó trong một 
giai đoạn lịch sử nhất định.
3. Triết lý của nghề thư viện - thông 
tin2
Vấn đề xác định triết lý thư viện-thông 
tin cũng được tiến hành ở nhiều nước. Theo 
M. Ia. Dvorkina (1994), trong những năm 
1930 ở Hoa Kỳ đã có những nghiên cứu về 
triết lý thư viện mà người đi đầu trong lĩnh 
vực này là A. P. Danton. Tuy nhiên, theo 
nhận xét của M. Ia. Dvorkina thì các quan 
điểm triết lý của các nhà khoa học Hoa 
Kỳ được xây dựng trên kinh nghiệm thực 
tiễn chứ không phải cứ liệu khoa học nên 
không vượt ra khỏi những khuôn mẫu của 
ý thức xã hội. Họ chưa thể phân biệt một 
cách rõ ràng triết lý thư viện với hệ tư tưởng 
nghề nghiệp [23].
Những năm gần đây đã xuất hiện những 
nghiên cứu tiếp theo đi tìm triết lý nghề 
thư viện ở Hoa Kỳ. Theo bài viết của Ban 
Biên tập tạp chí Lead Pipe, vào tháng 8 
năm 2012 Emily Ford đã công bố bài báo 
“What do we do and why do we do it”, 
trong đó đề nghị cộng đồng thư viện cần 
đưa ra một triết lý chung và thống nhất về 
2 Tác giả thấy gọi hoạt động thư viện - thông tin đúng hơn là gọi thông tin - thư viện. Lý do được trình bày trong: Lê Văn Viêt. Lại lạm bàn 
về một số thuật ngữ ngành thư viện - thông tin//Lê Văn Viết. Thư viện học: những bài viết chọn lọc. - H.: Văn hóa thông tin, 2006. - Tr. 
159 - 171.
3 Philosophy có 2 nghĩa: triết học và triết lý. Ở đây, tác giả bài viết dịch là triết lý cho phù hợp với tên bài báo.
nghề thư viện (librarianship”, mặc dù tác 
giả cũng biết rằng sẽ khó có được một triết 
lý thư viện thống nhất vì nghề thư viện quá 
rộng lớn mà chúng ta không nắm bắt được 
tầm mức ảnh hưởng của thư viện lên cộng 
đồng. Hưởng ứng đề nghị của tác giả, ban 
biên tập tạp chí đã tổ chức một buổi tự trả 
lời của các thành viên về các câu hỏi nêu 
ra trong bài báo của Emily Ford. Có người 
cho rằng triết lý thư viện ở tự do thông tin, 
người khác lại nói đến “Các giá trị cốt lõi 
của nghề thư viện” được ALA thông qua 
vào năm 2004, là một định nghĩa hợp lý 
và toàn diện về các mục tiêu của nghề thư 
viện: Truy cập; Bảo mật/riêng tư; Dân chủ; 
Đa dạng; Giáo dục và Học tập suốt đời; 
Tự do Trí tuệ; Sự bảo tồn; Công cộng tốt; 
Tính chuyên nghiệp; Dịch vụ; Trách nhiệm 
xã hội và nhiều ý kiến khác nữa. Nhưng 
rất tiếc ban biên tập tạp chí này không 
có tổng kết để đưa ra triết lý chung về 
nghề thư viện của Tạp chí. Có lẽ là khó 
nên mới có nhan đề bài báo: Editorial: Our 
Philosophies of Librarianship - Ban Biên 
tập: Những triết lý của chúng tôi về nghề 
thư viện [19]. Như thế, ở Hoa Kỳ cho đến 
nay chưa có một triết lý chung, thống nhất 
về nghề thư viện. Nói như vậy, không có 
nghĩa là ở đây họ không có các triết lý về 
nghề thư viện hay từng thư viện. Tại Hoa 
Kỳ, ít nhất cũng có một tạp chí (trực tuyến) 
mang tên Library Philosophy3 and Practice 
(e-journal) của các thư viện thuộc trường 
Đại học Nebraska - Lincoln... Mặc dù, tôn 
chỉ, mục đích của Tạp chí là xuất bản các 
bài báo khám phá mối liên hệ giữa thực 
tiễn thư viện với triết học và lý thuyết đằng 
sau nó nhưng trong số hàng trăm bài báo 
được xuất bản hàng năm, rất ít bài báo có 
nhan đề trực tiếp “philosophy” [21]....
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
13THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
Nhiều thư viện có triết lý riêng của mình. 
Có thư viện dưới tiêu đề Triết lý thư viện 
lại công bố giờ giấc làm việc, có thư viện 
lại giới thiệu vốn tài liệu của mình, có thư 
viện lại đưa ra hẳn một bản tuyên bố về 
phục vụ người dùng [20]. Như vậy, ở Hoa 
Kỳ do chưa có một triết lý thư viện chung, 
thống nhất nên mỗi thư viện thường có triết 
lý riêng theo quan niệm của mình.
Ở nước Nga, trong những năm gần đây 
cũng rất quan tâm đến vấn đề triết học (chứ 
không phải triết lý) thư viện. Có nhiều định 
nghĩa khác nhau về khái niệm này, trong 
đó đáng chú ý nhất là của S.A. Porosin 
(1994): “Triết học của hoạt động thư viện 
là khoa học về những vấn đề lý luận thế 
giới quan chung nhất của thư viện [25, tr. 
124]. Theo M. Ia. Dvorkina (1994), phân 
tích quan điểm của các nhà thư viện Nga 
thì thấy phần lớn trong số họ coi việc tìm 
hiểu công dụng xã hội (sứ mạng xã hội), 
vai trò của thư viện như là thiết chế xã hội, 
là vấn đề lý luận quan trọng của triết học 
thư viện trong giai đoạn hiện nay. Còn triết 
lý của hoạt động thư viện của nước Nga 
trước cách mạng tháng Mười năm 1917 là 
triết học khai sáng (giáo dục - tg). Trong 
thời kỳ Xô viết vấn đề triết học thư viện nằm 
trong môn thư viện học đại cương vì khi đã 
có nền triết học Mác – Lenin thì không thể 
nói về triết học thư viện [23, tr. 52 - 53]. 
Theo X. V. Petrova (1993), M. Ia. Dvorkina 
có nhận định rằng, triết lý mới của công 
tác thư viện là triết lý của phổ cập thông 
tin tới tất cả mọi người. Chính triết lý này 
đã được phản ánh trong hàng loạt chương 
trình của IFLA và cũng không trái với triết 
lý khai sáng trước kia mà trái lại còn là sự 
phát triển của triết lý đó trong điều kiện mới 
[24, tr. 136]. Như vậy, ở Nga, các nhà thư 
viện học quan tâm nhiều hơn tới triết học 
thư viện. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu 
của họ đã xuất hiện tiền để để tạo nên triết 
lý thư viện: quan điểm về phổ cập thông tin 
của M. Ia. Dvorkina.
Ở Việt Nam, triết lý thư viện chưa được 
đề cập nhiều. Tiêu biểu là bài: “Triết lý cho 
sự phát triển thư viện hiện nay” của TS 
Phạm Hồng Toàn [13]. Tuy nhiên, trong bài 
viết này, tác giả không đưa ra định nghĩa về 
triết lý thư viện nhưng đã nêu ra được 2 triết 
lý thư viện của nước ta từ xa xưa tới nay:
- Triết lý thứ nhất, theo ý của tác giả, 
liên quan đến chế độ phong kiến ở nước 
ta. Thời kỳ này, các thư viện Việt Nam đã 
coi tàng trữ là chức năng chính. Vì vậy, mọi 
hoạt động của thư viện đều xoay quanh 
làm thế nào để thu thập được nhiều thư 
tịch, để bảo quản thư tịch được bền lâu. 
Triết lý cho sự phát triển thư viện lúc bấy 
giờ cũng xoay quanh vấn đề tàng trữ thư 
tịch, vì vậy triều đình có rất nhiều hình thức 
để làm tăng nhanh số lượng và tuổi thọ của 
kho sách vở nhưng lại ít biện pháp kích 
thích việc đọc.
- Triết lý thứ hai, liên quan đến thời kỳ 
từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 
đến nay. Theo TS Phạm Hồng Toàn thì triết 
lý của thư viện giai đoạn này là phấn đấu 
làm cho việc đọc sách trở thành thói quen 
không thể thiếu được của mỗi người dân. 
Triết lý này bắt nguồn từ vị trí quan trọng 
của cuộc cách mạng văn hóa và cách 
mạng khoa học kỹ thuật.
- Giai đoạn từ nay về sau, trong hoàn 
cảnh việc đọc có phần giảm sút, các văn 
bản quy phạm pháp luật về thư viện đã 
thông qua còn có những bất cập, các văn 
bản mới chưa được xây dựng tốt nên bắt 
buộc TS Phạm Hồng Toàn phải đặt ra câu 
hỏi: Vậy trong giai đoạn trước mắt, cần phải 
tính đến triết lý phát triển thư viện như thế 
nào? Nhưng tiếc rằng tác giả cũng chưa 
đưa ra những đề xuất của mình về triết lý 
thư viện Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
Trong khi chưa có triết lý thư viện chung 
của cả nước, một số thư viện riêng lẻ cũng 
đã đưa ra triết lý của mình. Ví dụ, Thư viện 
Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Tp. Hồ 
Chí Minh, trong bài giới thiệu về mình đã 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
14 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
đưa ra triết lý hoạt động như sau: Thư viện 
là điểm giao thoa, hội tụ những tinh hoa 
khoa học và công nghệ phục vụ cho nhu 
cầu nghiên cứu, giảng dạy và học tập của 
nhà trường. Cùng với nhà trường, Thư viện 
cam kết không ngừng sáng tạo để gia tăng 
giá trị học thuật của mọi thành phần trong 
nhà trường thông qua hoạt động hỗ trợ và 
triển khai ứng dụng kiến thức của mình, 
thúc đẩy một môi trường thuận lợi cho nhu 
cầu học tập, giao tiếp học thuật, vận động 
sáng tạo, và học tập suốt đời [12].
Tóm lại, cho đến nay, có nhiều triết lý 
thư viện nhưng chưa có triết lý chung thống 
nhất cho mỗi nước chứ chưa nói đến cho 
cả thế giới. Trên thực tế có thể có triết lý 
như vậy không? Tác giả bài báo nghĩ là có. 
Trên thế giới, từ lâu đã xuất hiện những câu 
nói, dòng chữ nói lên vị trí, vai trò của thư 
viện trong xã hội. Chẳng hạn, tại I Rắc cổ 
đại, một trong hai tòa nhà rộng lớn và lộng 
lẫy của Thư viện của vua Assurbanipal (trị 
vì từ năm 668 - năm 626 TCN) ở Nineveh 
được gắn cho tên gọi “Ngôi nhà của những 
giáo huấn và khuyên nhủ” [26]. Đây chính 
là triết lý về chức năng khai sáng của thư 
viện. Sau đó gần 10 thế kỷ, tại Trung Đông 
ngày nay xuất hiện một dạng thư viện được 
gọi là “Ngôi nhà của sự thông thái” - biểu 
hiện của triết lý thư viện là một tổ chức khoa 
học. Một trong những thư viện đầu tiên 
theo mô hình ngôi nhà của sự thông thái 
được hình thành vào thế kỷ VII. Đó là thư 
viện tại thành phố Damas, thành phố được 
coi là trung tâm khoa học của thế giới Hồi 
giáo thời kỳ này. Sở dĩ được gọi như vậy là 
do các thư viện này có số lượng tài liệu lớn, 
phong phú, được nhiều nhà khoa học đến 
làm việc hoặc sử dụng. Các bản sao chép 
trong kho sách của thư viện được chở về từ 
nhiều nơi trên thế giới. Một phần lớn là tài 
liệu về kinh Coran. Trong thư viện còn có 
bộ sưu tập lớn các bản thảo về thuật luyện 
đan, y học, thiên văn học, lịch sử, triết học, 
văn học [26]. 
Vào thời Phục Hưng, những người theo 
chủ nghĩa nhân văn rất coi trọng sách và 
thư viện. Nhà khoa học, nhà giáo dục, nhà 
nhân văn học Paolo Vergerio (1370 - 1444) 
của Italy đã đưa ra quan điểm: “Sách vở 
cần thiết cho việc lưu giữ những ký ức về 
quá khứ. Sách là kho tri thức tổng hợp. 
Chúng ta phải quan tâm tới việc thu thập 
chúng từ các thế hệ đi trước và chuyển 
giao cho các thế hệ mai sau một cách đầy 
đủ và nguyên vẹn” [26]. Triết lý này có 
thể là cơ sở để Hoàng đế Pháp Franxoa I 
vào năm 1537 đã đưa ra quy định về nộp 
lưu chiểu ấn phẩm cho Thư viện Hoàng gia 
nhằm mục đích lưu giữ lâu dài. Thực tiễn 
này đã được áp dụng sau đó trên khắp thế 
giới. Đồng thời, đây cũng có thể là cơ sở lý 
luận cho thực tiễn chú trọng trước hết đến 
bảo quản đầy đủ tài liệu trong các thư viện 
châu Âu những thế kỷ tiếp theo.
Cuộc Đại Cách mạng tư sản Pháp 
(1789-1799) đã tạo ra một triết lý mới cho 
hoạt động thư viện của nước Pháp và sau 
này phổ biến trên khắp thế giới. Một trong 
những người lãnh đạo cuộc cách mạng, 
sau này là Đại biểu của Quốc hội lập hiến 
và Hội nghị Quốc ước, Henri Grégoire 
(1750-1831) đã đưa ra quan điểm: phải mở 
cánh cửa thư viện cho tất cả những người 
mong muốn đ ược tiếp cận với kho tàng 
sách phong phú. Ông gọi những thư viện 
công cộng là “những phân xư ởng của tri 
thức nhân loại” [26]. Ý tưởng này đã được 
áp dụng ở Pháp và sau này áp dụng ra 
nhiều nước trên thế giới. Các nguyên tắc 
tổ chức và hoạt động thư viện của Chính 
phủ Pháp sau Cách mạng Tư sản đã được 
nghiên cứu áp dụng tại Liên Xô trước kia. 
Còn ý tưởng trên của Henri Grégoire được 
lấy làm nền tảng để sau này xây dựng khái 
niệm về tính công cộng (phổ cập) của thư 
viện và trong một số văn bản của UNESCO.
Đi theo mạch này, nghĩa là mở rộng cửa 
thư viện phục vụ người dân, giai đoạn sau 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
15THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
còn có hai quan điểm triết lý đáng chú ý. 
Một là, ý tưởng của Melvil Dewey (1851 - 
1931), nhà thư viện học Hoa Kỳ “Các sách 
tốt nhất cho nhiều người nhất với chi phí 
ít nhất” có thể coi là triết lý của thư viện. 
Thứ hai là, câu nói của V.I.Lênin (1914): 
“Niềm hãnh diện và tự hào của thư viện 
công cộng không phải ở chỗ nó có bao 
cuốn sách quý, có bao nhiêu bộ sách xuất 
bản hồi thế kỷ XVI hay có bao nhiêu tác 
phẩm viết tay từ hồi thế kỷ X mà là ở chỗ 
sách được chuyển đọc trong nhân dân 
rộng rãi đến mức nào, đã thu hút được bao 
nhiêu bạn đọc mới ... Làm cho các thư viện 
lớn phổ cập không phải đối với một nhóm 
nhỏ các nhà bác học, các giáo sư, các nhà 
chuyên môn khác nhau mà là cho quần 
chúng, đám đông, cho đường phố” [9].
Trở lại với nhận định về ý tưởng của 
Henri Grégoire có thể đã được sử dụng 
vào một số văn bản của UNESCO mà cụ 
thể là các tuyên ngôn của UNESCO về 
thư viện công cộng (TVCC). Từ trước đến 
nay, UNESCO đã cho ra đời 3 bản tuyên 
ngôn về thư viện công cộng (1949; 1972 
và 1994). Các bản Tuyên ngôn sau thường 
kế thừa và phát triển bản tuyên ngôn trước. 
Trong bản Tuyên ngôn năm 1972 có đoạn 
viết: “Để thực hiện các nhiệm vụ mà xã hội 
giao phó cho TVCC thì các cánh cửa của 
chúng phải mở rộng cho tất cả mọi người 
không phân biệt dân tộc, màu da, tuổi tác, 
giới tính, niềm tin tôn giáo, xuất thân về 
mặt xã hội và trình độ học vấn” [17].
Còn trong Tuyên ngôn TVCC năm 1994, 
UNESCO lại tuyên bố rằng: “Việc phục 
vụ trong TVCC theo nguyên tắc tiếp cận 
bình đẳng được dành cho tất cả mọi người 
không phân biệt tuổi tác, chủng tộc, giới 
tính, tôn giáo, quốc tịch, ngôn ngữ và địa vị 
xã hội” [18].
Như vậy có thể nói rằng từ nhiều thế 
kỷ nay, thế giới đã đi theo triết lý mở cửa 
thư viện cho mọi người dân sử dụng. Mỗi 
người, tổ chức có cách trình bày triết lý đó 
khác nhau. Ngay cả UNESCO ở 2 thời kỳ 
khác nhau cũng có cách điều chỉnh cho 
phù hợp với tình hình.
Từ những gì trình bày ở trên, tác giả cho 
rằng triết lý nghề thư viện - thông tin của 
nước ta và thế giới trong giai đoạn hiện 
nay nên là: cung cấp sự tiếp cận bình đẳng 
tới thông tin/tài liệu cho tất cả mọi người 
không phân biệt tuổi tác, chủng tộc, giới 
tính, chính kiến, niềm tin tôn giáo, quốc 
tịch, ngôn ngữ và địa vị xã hội.
Tất nhiên, hiện nay có những nước có 
cuộc vận động tiếp cận tự do đến thông 
tin nhưng tác giả không muốn sử dụng 
thuật ngữ này vì thực tế có những thông tin 
không thể nào tiếp cận được hoặc nếu tiếp 
cận trái phép có thể bị truy cứu hình sự. 
Tuy nhiên, để có thể tiếp cận bình đẳng 
tới thông tin, cần rất nhiều điều kiện, yếu tố, 
như yếu tố về pháp lý (đặc biệt về quyền 
tác giả); cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật, 
vốn tài liệu/nguồn lực thông tin, các dịch vụ 
tiên tiến, hiện đại hướng tới người sử dụng; 
trình độ nhân lực thư viện, người dùng,.
Đây chỉ là ý kiến cá nhân ban đầu về một 
vấn đề lớn, chưa được khai phá nhiều của 
ngành thư viện nước ta nên chắc chắn còn 
nhiều điểm chưa hoàn thiện. Tác giả mong 
nhận được đóng góp của các đồng nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đình Chú (2011). Tản mạn đôi 
điều trên đường đi tìm triết lý cho nền giáo 
dục nước nhà/ Nguyễn Đình Chú . - H.:, 
2011 // Tạp chí Khoa học giáo dục Số 73 
tr.: 5-8, 31.
2. Giáp Văn Dương (2016). Gọi tên triết lý 
giáo dục. Truy cập 15/6/2016 tại //bvu.
edu.ViệtNam/web/phong-hanhchinh/tong-
quan/asset_publisher/1k77QYwtV2PO/
content/goi-ten-triet-ly-giao-duc.
3. Đại học Khoa học Huế . Bộ môn Triết học. 
Hướng dẫn ôn tập triết học Mác - Lênin: 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
16 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
tài liệu lưu hành nội bộ. - Huế, ĐH Khoa 
học Huế, 1998.Truy cập ngày 15/6/2017 
tại://www.husc.edu.Việt Nam/khoallct/
downloads.php?cat_id=52&download_
id=217
4. Hương Giang. Việt Nam vẫn đang đi tìm 
triết lý giáo dục? vietnamnet.Việt Nam/.../
giao-duc/viet-nam-van-dang-di-tim-triet-ly-
giao-duc-361.
5. Phạm Minh Hạc. Triết lý giáo dục thời 
kỳ đổi mới. Truy cập ngày 22/6/2017 
tại. Truy cập ngày 22/6/2017 tại http://
www.tapchicongsan.org.Việt Nam/Home/
Nghiencuu-Traodoi/2012/14229/Triet-ly-
giao-duc-thoi-ky-doi-moi.aspx 
6. Chu Hảo. Việt Nam đang đi theo triết lý 
giáo dục nào?//www.vusta.Việt Nam/vi/
news/Trao-doi-Thao-luan/Viet-Nam-dang-
di-theo-triet-ly-giao-duc-nao-26134.html
7. Jaspers, Karl. “Triết lý là gì?”, trong Triết 
học nhập môn. Lê Tôn Nghiêm dịch. Bộ 
Giáo dục và Thanh niên - Trung tâm học 
liệu xuất bản, 1969, tr. 30-36. Truy cập 
ngày 23/6/2017 tại: // triethoc.edu.Việt 
Nam/vi/chuyen-de-triet-hoc/nhap-mon-
triet-hoc/triet-ly-la-gi_563.html
8. Nguyễn Lân (2000). Từ điển từ và ngữ Việt 
Nam. – Tp. HCM, Nxb Tp HCM, 2000.
9. Lênin, V. I. Có thể làm gì cho nền giáo 
dục quốc dân// Lênin toàn tập. – H., Nhà 
xuất bản Chính trị quốc gia, 1996. - T.23. - 
Tr.439 - 440.
10. Thùy Linh (2016). Triết lý giáo dụcViệt Nam 
qua phân tích của Phó Thủ tướng Vũ Đức 
Đam. Truy cập ngày 25/6/2017 tại http://
giaoduc.net.Việt Nam/Giao-duc-24h/Triet-
ly-giao-duc-Viet-Nam-qua-phan-tich-cua-
Pho-Thu-tuong-Vu-Duc-Dam-post172529.
giáo dục.
11. Thể loại:Triết lý cuộc sống - Wikibooks 
tiếng Việt. truy cập ngày 20/6/2017 tại 
https://vi.wikibooks.org/wiki/Thể loại: Triết 
lý cuộc_sống
12. Thư viện Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật 
Tp Hồ Chí Minh. Giới thiệu. Truy cập ngày 
27/6/2017 tại  
Nam/ArticleId/dddcfc05-88a3-4bd0-a661-
b2127418a357/dinh-huong-phat-trien-thu-
vien
13. Phạm HồngToàn (2013). Triết lý cho sư 
phát triển thư viện hiện nay// Tạp chí Thư 
viện Việt Nam. - 2013. - Số 3. - Tr. 39-42
14. Từ điển Anh-Việt/Viện Ngôn ngữ học. – H.: 
Nxb KHXH, 2009
15. Từ điển tiếng Việt/ Hoàng Phê (chủ 
biên)...2010 . – Tr. 1327.
16. Về triết lý giáo dụcViệt Nam//Tạp chí Cộng 
sản (26/09/2007)
17. Lê Văn Viết (1998). Một vài nét về thư viện 
công cộng trên thế giới: chuyên đề soạn 
cho Khoa Sau đại học. - H.: ĐHVHHN, 
1998. – 72 tr (in vi tính).
18. UNESCO. Tuyên ngôn năm 1994 của 
UNESCO về thư viện công cộng/UNESCO; 
Lê Văn Viết dịch// Về công tác th ư viện: các 
văn bản pháp quy hiện hành về thư viện. - 
H. : Vụ Thư viện, 2008. - Tr.283 - 287.
19. Editorial: Our Philosophies of Librarianship. 
Truy cập ngày 25/6/2017 tại// www.
in thel ibrar ywi th theleadpipe.org/ . . . /
editorial-our-philosophies-of-l..
20. Library Philosophy - Alice Baker Library. 
Truy cập ngày 24/6/2017 tại www.
alicebaker.lib.wi.us/?page_id=1703
21. Library Philosophy and Practice (e-journal) 
| Libraries at University of ...Truy cập ngày 
25/6/2017 tại digitalcommons.unl.edu/
libphilprac
22. Аликанов, K. M, Мальханова, И. A. .(2007). 
Từ điển Nga – Việt mới = Новыйрусскo - 
вьетнамский Словарь. – H.: Nxb Thế giới, 
2007
23. Дворкина, М. Я. (1994) Философия 
библиотечной деятельности //
Библиотековедение. – 1994. - N.2. – Cтр. 
51 – 53.. 
24. Петрова, C.B (1993). На пути кпеременaм// 
Библиотековедение. – 1993. - N.5 – 6. – Cтр. 
136..
25. Порошин, С. А. (1994). Философия
библиотеки:кпостановкевопроса // 
Библиотековедение. – 1994. - N.5. – Cтр. 
124.. 
26. Талалакина, О. И.(1982) История 
библиотечного делаза рубежом. M.: Kнига, 
1982
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 10-12-2017; 
Ngày phản biện đánh giá: 5-3-2018; Ngày chấp 
nhận đăng: 15-6-2018).

File đính kèm:

  • pdfbuoc_dau_tim_hieu_triet_ly_cua_nghe_thu_vien_thong_tin.pdf