Bộ gõ cơ thể từ khái niệm đến ứng dụng trong giáo dục âm nhạc

Từ xa xưa, con người đã tạo ra những hoạt động mang tính nghệ thuật như hát, múa,

để thể hiện quá trình lao động, đời sống, tâm linh , tạo ra các điệu nhảy bằng những cách

thức vỗ vào cơ thể với mục đích giao tiếp, sinh hoạt, thờ cúng tín ngưỡng. Do đó, từ “buổi

bình minh” của nhân loại, con người đã biết dùng cơ thể như một nhạc cụ để tạo ra âm

thanh (Naranjo, 2013); vì thế, bộ gõ cơ thể được cho là có nguồn gốc xuất phát từ thời tiền

sử dưới góc nhìn của các nhà Xã hội học, Nhân chủng học và Âm nhạc dân tộc học. Con

người kể từ thời tiền sử luôn có âm nhạc trong tầm tay, như vậy có thể nhận định, nhạc cụ

đầu tiên của con người chính là cơ thể. Thông qua nhiều giai đoạn của lịch sử phát triển, bộ

gõ cơ thể ngoài việc trở thành môn nghệ thuật trong biểu diễn âm nhạc, còn được ứng dụng

trong các phương pháp giáo dục âm nhạc hiện đại ở thế kỉ XX. Với quan điểm “âm thanh

đi trước kí hiệu”, hướng việc vận động cơ thể giúp phát triển trí não và năng lực cảm thụ

âm nhạc, cũng chính là cơ sở để hệ thống hóa, xây dựng và phát triển bộ gõ cơ thể từ mức

độ thấp đến cao. Những phân tích dưới đây sẽ làm rõ khái niệm, quá trình hình thành và

phát triển, đặc điểm âm nhạc và tính ứng dụng của bộ gõ cơ thể trong giáo dục âm nhạc

cũng như trong thực tế đời sống.

pdf 10 trang kimcuc 11460
Bạn đang xem tài liệu "Bộ gõ cơ thể từ khái niệm đến ứng dụng trong giáo dục âm nhạc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bộ gõ cơ thể từ khái niệm đến ứng dụng trong giáo dục âm nhạc

Bộ gõ cơ thể từ khái niệm đến ứng dụng trong giáo dục âm nhạc
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH 
TẠP CHÍ KHOA HỌC 
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION
JOURNAL OF SCIENCE
ISSN: 
1859-3100 
KHOA HỌC GIÁO DỤC 
Tập 16, Số 4 (2019): 170-179 
EDUCATION SCIENCE
Vol. 16, No. 4 (2019): 170-179
 Email: tapchikhoahoc@hcmue.edu.vn; Website:  
170 
BỘ GÕ CƠ THỂ 
 TỪ KHÁI NIỆM ĐẾN ỨNG DỤNG TRONG GIÁO DỤC ÂM NHẠC 
Nguyễn Đăng Bửu 
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam,Thành phố Hồ Chí Minh 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Đăng Bửu – Email: dangbuu2013@gmail.com 
Ngày nhận bài: 19-10-2018; ngày nhận bài sửa: 28-10-2018; ngày duyệt đăng: 25-4-2019 
TÓM TẮT 
Bộ gõ cơ thể (Body Percussion), một công cụ dạy học âm nhạc của phương pháp Orff-
Schulwerk, là nghệ thuật tạo nên các âm thanh bằng sự tương tác của các bộ phận của cơ thể. Bài 
viết gồm những kiến thức cơ bản về bộ gõ cơ thể trong dạy học âm nhạc nhằm giúp giáo viên và 
sinh viên sư phạm âm nhạc thực hiện tốt nhiệm vụ sư phạm của mình khi chương trình mới được áp 
dụng trong thời gian tới. 
Từ khóa: bộ gõ cơ thể, các nội dung dạy học âm nhạc, phương pháp Orff-Schulwerk, 
phương pháp dạy học âm nhạc mới. 
1. Mở đầu 
Từ xa xưa, con người đã tạo ra những hoạt động mang tính nghệ thuật như hát, múa, 
để thể hiện quá trình lao động, đời sống, tâm linh, tạo ra các điệu nhảy bằng những cách 
thức vỗ vào cơ thể với mục đích giao tiếp, sinh hoạt, thờ cúng tín ngưỡng. Do đó, từ “buổi 
bình minh” của nhân loại, con người đã biết dùng cơ thể như một nhạc cụ để tạo ra âm 
thanh (Naranjo, 2013); vì thế, bộ gõ cơ thể được cho là có nguồn gốc xuất phát từ thời tiền 
sử dưới góc nhìn của các nhà Xã hội học, Nhân chủng học và Âm nhạc dân tộc học. Con 
người kể từ thời tiền sử luôn có âm nhạc trong tầm tay, như vậy có thể nhận định, nhạc cụ 
đầu tiên của con người chính là cơ thể. Thông qua nhiều giai đoạn của lịch sử phát triển, bộ 
gõ cơ thể ngoài việc trở thành môn nghệ thuật trong biểu diễn âm nhạc, còn được ứng dụng 
trong các phương pháp giáo dục âm nhạc hiện đại ở thế kỉ XX. Với quan điểm “âm thanh 
đi trước kí hiệu”, hướng việc vận động cơ thể giúp phát triển trí não và năng lực cảm thụ 
âm nhạc, cũng chính là cơ sở để hệ thống hóa, xây dựng và phát triển bộ gõ cơ thể từ mức 
độ thấp đến cao. Những phân tích dưới đây sẽ làm rõ khái niệm, quá trình hình thành và 
phát triển, đặc điểm âm nhạc và tính ứng dụng của bộ gõ cơ thể trong giáo dục âm nhạc 
cũng như trong thực tế đời sống. 
2. Nội dung 
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của bộ gõ cơ thể 
Sự hình thành và phát triển của bộ gõ cơ thể trong giáo dục âm nhạc, nhờ sự đóng 
góp của các nhà Âm nhạc dân tộc học và Sư phạm âm nhạc nổi tiếng trên thế giới như: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Đăng Bửu 
171 
Jaques-Dalcroze1, Zoltán Kodály2, Carl Orff3, Gunild Keetman4, Frank Churchley5 
Trước khi có được thuật ngữ Body Percussion, là quá trình nghiên cứu âm nhạc của các 
nhà Dân tộc học về các tộc người. Jaques-Dalcroze đã dành nhiều năm sống ở Bắc Phi, đặc 
biệt tại Algeria, nghiên cứu những đặc điểm vận động cơ thể trong các hoạt động sinh hoạt 
đời sống của người dân bản địa và đã áp dụng trong phương pháp dạy học âm nhạc của 
ông với công cụ “vận động và cảm thụ âm nhạc”. Warner và Babatunde (1965) đã cho 
xuất bản ấn phẩm “Musical Istruments of Africa”, trong chương đầu tiên đã giới thiệu về 
Body Percussion. Warner và Babatunde đã giải thích khái niệm “body percussion” dưới 
góc độ dân tộc học và nêu rõ tầm quan trọng của phương thức âm nhạc này trong các hình 
thức sinh hoạt của các bộ lạc Từ những nghiên cứu trên, các nhà sư phạm âm nhạc đã 
tìm hiểu và vận dụng vận động cơ thể vào phương pháp giáo dục âm nhạc của mình, với 
quan niệm cơ thể chính là một nhạc cụ giúp người học trải nghiệm âm nhạc. Các nhà sư 
phạm âm nhạc sử dụng thuật ngữ “body percussion” trong các tài liệu dạy học âm nhạc 
trong nhà trường; trong đó, Orff-Schulwerk đã phát triển bộ gõ cơ thể thành một công cụ 
dạy học âm nhạc quan trọng trong hệ thống phương pháp của ông. Ngoài ra, bộ gõ cơ thể 
còn được ứng dụng trong các lĩnh vực khác như: về y tế: điều trị tâm lí, các hội chứng về 
thần kinh và não bộ; về thể dục thể thao: rèn luyện và phát triển thể chất 
2.1.1. Khái niệm 
Thuật ngữ Body Percussion (được dịch sang tiếng Việt là bộ gõ cơ thể) – là một từ 
ghép của hai từ body (cơ thể) và percussion (bộ gõ), mang ý nghĩa âm thanh được tạo ra từ 
cơ thể. Cơ thể chính là nhạc cụ ban đầu trong hoạt động dạy học âm nhạc, giúp học sinh 
trải nghiệm âm nhạc thông qua vận động, để tạo ra âm thanh và nhịp điệu. Cũng như các 
nhạc cụ bộ gõ khác, phát ra âm thanh bằng cách chạm, vỗ, lắc vào nhạc cụ để tạo rung 
động, bao gồm: tiếng vỗ tay (clapping), búng ngón tay (snapping), vỗ ngực (slapping on 
the chest), vỗ đùi (slapping on the thigh), và dậm chân (stamping). Đây chính là năm âm 
thanh cơ bản của BỘ GÕ CƠ THỂ, ngoài ra còn có những động tác khác. 
2.1.2. Sự hình thành 
Theo nghiên cứu Âm nhạc dân tộc học, bộ gõ cơ thể có nguồn gốc rất đa dạng và 
phong phú, xuất hiện hiện trong các hình thức sinh hoạt, hoạt động múa hát, lao động, giao 
tiếp và nghi lễ của các bộ lạc ở châu Phi, Đông Nam Á, châu Mĩ... Những thổ dân của các 
bộ lạc họ sử dụng các vận động cơ thể này để thể hiện các nghi thức sinh hoạt thờ cúng 
thần linh, lễ tế, tái hiện việc lao động, các mối quan hệ xã hội, thông qua đó để giao tiếp 
với nhau thay ngôn ngữ nói. Theo thời gian, bộ gõ cơ thể được hình thành nên từ những 
1 Jaques-Dalcroze (1865 – 1950): là nhà soạn nhạc, sư phạm âm nhạc người Thuỵ Sĩ. Ông đã sáng tạo ra phương pháp 
giáo dục âm nhạc Dalcroze. 
2 Zoltán Kodály (1882 – 1967): là nhà soạn nhạc, sư phạm âm nhạc người Hungari. Ông đã sáng tạo ra phương pháp giáo 
dục âm nhạc Kodály. 
3 Carl Orff (1895 – 1982): là nhà soạn nhạc, sư phạm âm nhạc người Đức. Ông đã cùng Gunild Keetman sáng tạo ra 
phương pháp giáo dục âm nhạc Orff-Schulwerk. 
4 Gunild Keetman (1904 – 1990): đồng sáng lập phương pháp giáo dục âm nhạc Orff-Schuwerk. 
5 Frank Churchley (1930): là nhà giáo dục, nghệ sĩ Piano người Canada. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 4 (2019): 170-179 
172 
nét sinh hoạt cộng đồng của các tộc người, được gìn giữ và phát triển cho đến ngày nay, tất 
cả trở thành nét nghệ thuật đặc trưng trong văn hóa bản địa (Prezi, 2015). Đơn cử các thể 
loại âm nhạc sau: 
- Thể loại Gumboot được tìm thấy ở Châu Phi, họ sử dụng bộ gõ cơ thể như một bộ 
trống để ra hiệu với nhau trong quá trình lao động khai thác kim cương thời thuộc địa. 
Ngày nay, Gumboot phát triển thành vũ điệu để tôn vinh những cuộc đấu tranh trong quá 
khứ. 
- Thể loại Saman được tìm thấy ở Indonesia. Đây là điệu múa trong nghi lễ tôn giáo 
truyền thống của người Indonesia, họ sử dụng bộ gõ cơ thể một cách khéo léo và tinh tế ở 
nhịp độ nhanh. 
- Thể loại Flamenco được tạo ra bởi những người Gypsy Tây Ban Nha – một thể loại 
âm nhạc được kết hợp với điệu nhảy. Đặc trưng của của điệu nhảy này đó là vỗ tay, dậm 
chân. 
- Thể loại Clogging được tìm thấy ở Vương quốc Anh, trong giai đoạn cách mạng 
công nghiệp. Tại các nhà máy, công nhân thường áp dụng các vận động để giữ cho bàn 
chân khô ráo. Hiện nay, thể loại Clogging phát triển và được biết đến như nghệ thuật gõ 
gót giày. Cách thực hiện dậm chân để gõ gót giày trên sàn nhà kết hợp với các tác phẩm 
dân ca. 
- Thể loại Irish Step Dancing được hình thành ở Ireland, sử dụng chuyển động nhanh 
của chân, thân với tay. 
- Điệu nhảy Hambone Juba (Juba Dance), được hình thành từ những người công 
nhân nô lệ người Mĩ gốc Phi trong các cuộc hội họp của họ. Họ không dùng nhạc cụ mà 
thay vào đó là dùng bộ gõ cơ thể bằng cách vỗ tay, dậm chân, vỗ ngực, vỗ má, và kết hợp 
với những bài hát truyền thống để giao tiếp và sinh hoạt cộng đồng. 
- Tap Dance (America tap) được phát triển từ sự kết hợp giữa Juba và Irish Step 
Dancing. Tap Dance mang phong cách sân khấu âm nhạc Broadway, âm nhạc mang màu 
sắc của Jazz. 
- Catira là một loại vũ điệu dân gian ở Brazil, nó bắt ngồn từ sự pha trộn giữa các nền 
văn hoá bản địa và Châu Âu. Động tác chủ yếu kết hợp giữa dậm chân và vỗ tay. 
- Kathak xuất phát từ chữ “Katha”, là điệu nhảy có nguồn gốc từ miền Bắc Ấn Độ. 
Phong cách nhảy này thường kể về một câu chuyện như: thần Hindu, câu chuyện 
Mahabharata, Purana Raymayana... Điệu nhảy có những chuyển động nhanh, các vũ công 
thường đeo chuông trên cổ chân và dậm chân xuống sàn để tạo ra những tiết tấu và âm 
thanh nhịp nhàng kết hợp với âm nhạc. 
Đến nay, chưa có nghiên cứu nào nêu chính xác sự xuất hiện của bộ gõ cơ thể từ thời 
gian nào, chỉ biết rằng nó có nguồn gốc từ rất xa xưa. Tuy vậy, tên gọi Body Percussion 
chỉ mới xuất hiện từ những năm 1920 của thế kỉ XX (Naranjo, 2013), do các nhà sư phạm 
âm nhạc, âm nhạc dân tộc học, tổng hợp thực tế từ quá trình áp dụng vận động cơ thể 
vào hoạt động giáo dục âm nhạc và đã đặt tên. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Đăng Bửu 
173 
2.1.3. Sự phát triển 
Quá trình phát triển được tổng hợp qua ba giai đoạn: 
- Giai đoạn Khảo cứu: từ những nghiên cứu của các nhà Âm nhạc dân tộc học về văn 
hóa của các tộc người, từ đó phát hiện việc sử dụng vận động cơ thể trong các sinh hoạt 
cộng đồng. 
- Giai đoạn Hình thành: thấy rõ tầm quan trọng từ việc vận động cơ thể đối với sự hình 
thành phát triển âm nhạc cho trẻ, đã tạo nên các phương pháp giáo dục âm nhạc. 
- Giai đoạn Ứng dụng: vận động cơ thể trong các phương pháp giáo dục âm nhạc được 
áp dụng và mang lại hiệu quả trong việc giáo dục âm nhạc cho trẻ em, từ đó hình thành tên 
gọi thuật ngữ để xác định việc giáo dục âm nhạc bằng vận động cơ thể. 
Vận động và cảm thụ âm nhạc lần đầu tiên xuất hiện trong phương pháp giáo dục âm 
nhạc của Emily Jaques-Dalcroze - gọi là Dalcroze Eurhythmics6. Với quan điểm “Âm thanh 
đi trước kí hiệu” của Pestalozzi7, Dalcroze phát triển giáo dục âm nhạc cho trẻ em thông qua 
vận động dưới các hình thái khác nhau về tiết tấu (Campbell, 1991). Với Carl Orff – học trò 
ưu tú của Jaques-Dalcroze, đã phát triển vận động cơ thể và cảm thụ âm nhạc có phần vượt 
trội hơn thông qua công cụ bộ gõ cơ thể. Theo Orff, trẻ nghe, mô phỏng và thực hành trước 
sau đó mới đến đọc và viết (Shamrock, 2007). Quan điểm trên tương tự với việc học một 
ngôn ngữ nào đó với các nội dung: nghe, nói, đọc, viết. Việc học nhạc cũng trải qua các nội 
dung tương ứng: nghe nhạc, thực hành âm nhạc, đọc nhạc (xướng âm), viết nhạc (kí âm). Về 
vấn đề vận động cơ thể và cảm thụ âm nhạc, bài báo khoa học “Khái quát phương pháp dạy 
học âm nhạc tại Hoa Kì” của Hồ Ngọc Khải (2012) có nhận định rằng: 
Với Orff-Schulwerk, âm nhạc tồn tại đa thành phần (elemental) mà không riêng rẽ, 
nghĩa là âm nhạc phải gắn kết với động tác, vận động, vũ điệu, và nói – xướng theo vần điệu 
(speech). Vì thế, trẻ em học âm nhạc không phải chỉ nghe, đọc, xướng mà phải được tham 
gia, trải nghiệm âm nhạc qua vận động và chơi đùa (music and movement). Vận động âm 
nhạc gồm các vận động tại chỗ (non-locomotor movement) và vận động chuyển dịch 
(locomotor movement). Các vận động âm nhạc được thể hiện trong không gian, thời gian, và 
các mức độ sử dụng năng lượng cơ thể, được thiết kế theo những mẫu hoặc cấu trúc âm nhạc 
đặc trưng” (Hồ Ngọc Khải, 2012, tr. 3). 
Phương pháp giáo dục âm nhạc Orff-Schulwerk về vận động cảm thụ âm nhạc được 
phát triển vượt trội, trở thành một công cụ chính trong hoạt động dạy học với tên gọi Body 
Percussion. Ngày nay, bộ gõ cơ thể phát triển rất mạnh như là một bộ môn nghệ thuật độc 
lập, kết hợp với hát, hợp xướng, múa đương đại và được áp dụng trong chương trình giáo 
dục âm nhạc ở các nước tiên tiến như: Singapore, Nhật, Canada, và đặc biệt là Hoa Kì. 
2.2. Đặc điểm âm nhạc và ứng dụng của Bộ gõ cơ thể. 
Bộ gõ cơ thể theo phương pháp Orff-Schulwerk là một nhạc cụ không định âm, dùng 
cơ thể tạo ra âm sắc thông qua các động tác vận động từ cơ bản đến phức tạp. Các âm 
6 Dalcroze Eurhythmics: vận động và cảm thụ âm nhạc theo Dalcroze. 
7 Johann Heinrich Pestalozzi (1746-1827) nhà giáo dục âm nhạc người Thuỵ Sĩ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 4 (2019): 170-179 
174 
thanh được thay đổi liên tục theo một nhóm âm hình tiết tấu nào đó, bằng sự kết hợp các 
động tác, tạo thành một tác phẩm âm nhạc đầy màu sắc. Tùy vào lứa tuổi, quá trình luyện 
tập bộ môn bộ gõ cơ thể sẽ có những cấp độ khác nhau được phân chia theo trình độ, khả 
năng và độ khó. 
2.2.1. Các động tác của bộ gõ cơ thể 
Bộ gõ cơ thể dựa trên âm thanh được tạo ra từ 5 động tác cơ bản trên cơ thể theo thứ 
tự sau: 
- Búng ngón tay (Snapping) (bao gồm tay trái, tay phải hoặc cả hai), âm thanh phát ra 
bởi tác động của các ngón tay khi chụm vào nhau, búng và tạo ra âm thanh. 
- Vỗ ngực (Slapping on the Chest), âm thanh phát ra bởi tác động của lòng bàn tay vào 
vùng ngực trái và phải, tạo ra âm thanh. 
- Vỗ tay (Clapping), âm thanh phát ra bởi sự tác động của hai tay chạm vào lòng bàn 
tay để tạo ra âm thanh. 
- Vỗ đùi (Slapping on the Thigh) (bao gồm chân trái, chân phải hoặc cả hai), âm thanh 
phát ra bởi sự tác động một lực từ tay vào vùng đầu gối ở chân và tạo ra âm thanh. 
- Dậm chân (Stamping) (bao gồm chân trái, chân phải hoặc cả hai), âm thanh phát ra 
bởi sự tác động một lực từ chân vào nguồn phát ra âm thanh (mặt sàn gỗ, mặt sàn gạch), 
tạo ra những sự cộng hưởng âm thanh khác nhau. 
- Ngoài ra, còn có các động tác tạo ra âm thanh khác như: chà xát lòng bàn tay 
(horizontal hand rubbing), vỗ miệng (mouth clapping) 
Đối với học sinh bắt đầu làm quen với âm nhạc, chưa nhận biết được nốt nhạc, chỉ có 
thể mô phỏng lại các động tác cơ bản sau khi giáo viên làm mẫu, tiếp đó sẽ nhìn hình ảnh 
minh họa để thực hiện và phát triển những nhóm tiết tấu đơn giản. Khi học sinh đã làm 
quen với việc mô phỏng các động tác, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh về hệ thống kí hiệu 
các động tác được viết trên khuông nhạc (tương tự như kí hiệu của trống jazz và các loại 
nhạc cụ không định âm khác). Đồng thời hướng dẫn học sinh tập luyện tiết tấu với các bài 
tập đơn giản dựa trên những kí hiệu đó. (Richard Filz, 2005) 
Mẫu 
động 
tác 
Tên gọi Búng ngón tay Vỗ tay Vỗ ngực Vỗ đùi Dậm chân 
Ký hiệu R: búng ngón 
tay bên phải 
L: búng ngón 
tay bên trái 
R: vỗ ngực tay phải 
L: vỗ ngực tay trái 
R: vỗ đùi chân 
phải 
L: vỗ đùi chân 
trái 
R: dậm chân 
phải 
L: dậm chân 
trái 
(Kí hiệu ghi âm của các động tác được mã hóa thành nốt trên khuông nhạc theo Richard Filz trong 
sách Body Percussion Sounds and Rhythms, 2005). 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Đăng Bửu 
175 
2.2.2. Một số mẫu động tác cơ bản 
a. Các động tác cơ bản 
Vận động cơ bản của bộ gõ cơ thể dựa trên nền tảng của các động tác cơ bản kết hợp 
với các nhóm tiết tấu đơn giản. Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành những mẫu luyện 
tập đơn giản, theo cá nhân riêng lẻ hoặc từng nhóm. Sau khi thành thạo, giáo viên hướng 
dẫn học sinh kết hợp hòa bè với nhau theo các mẫu luyện tập. Hòa bè theo dạng bè đuổi 
(canon), theo âm hình trì tục (ostinato), chơi độc lập hoặc đệm cho bài hát, hay kết hợp với 
các nhạc cụ khác như một bè đệm. 
b. Các mẫu bài tập 
Dưới đây là một số mẫu bài tập giúp người học bước đầu thực hành bộ gõ cơ thể 
 Tập làm quen với nhưng động tác cơ bản (động tác độc lập) 
 Bài tập kết hợp 1: 2 động tác cơ bản 
 Bài tập kết hợp 2: 3 động tác cơ bản 
 Bài tập đệm hát: (Từ 2 - 3 động tác kết hợp đệm) 
 Đệm cho bài hát Cô giáo em 
 Cô giáo em người xinh xinh. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 4 (2019): 170-179 
176 
Mẫu 1: 
Mẫu 2: 
Mẫu 3: 
 Bài tập hòa âm: (Từ 2, 3, 4 ... mẫu âm kết hợp theo chiều dọc) và kết hợp nhạc cụ gõ 
 Mẫu 1 Mẫu 2 
 Bài tập hòa âm + nhạc cụ gõ + đệm hát 
Ví dụ: mẫu đệm cho bài Đồng dao Nu na nu nống 
NU NA NU NỐNG 
Đồng dao Bắc Bộ 
Nu na nu nống 
Cái trống nằm trong, con ong nằm ngoài 
Củ khoai chấm mật, mật ngồi mật khóc 
Con cóc nhảy ra, con gà ú ụ 
Bà mụ thổi xôi, nhà tôi nấu chè 
Tay xèo chân rụt. 
Phần đệm 
Đệm cho bài hát Lý cây xanh 
Cái cây xanh xanh thì lá cũng xanh, chim 
a
b
c
d
 Đệm cho bài hát Sắp đến Tết rồi 
Sắp đến Tết rồi, đến trường rất vui 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Đăng Bửu 
177 
2.2.3. Những ứng dụng của Bộ gõ cơ thể ngày nay 
Bên cạnh ứng dụng vào giáo dục âm nhạc, bộ gõ cơ thể còn được ứng dụng ngoài 
ngành như: y học, chăm sóc sức khỏe, phát triển thể chất, điều trị tâm lí... Chính sự vận 
động cơ thể đã tác động tích cực đến hệ thần kinh của con người, giúp phát triển trí não và 
thể chất. Có thể nói, bộ gõ cơ thể rất đa dạng, mang tính ứng dụng cao trong thực tiễn đời 
sống và đã trở thành một bộ môn nghệ thuật âm nhạc đặc sắc. Tính ứng dụng được thể hiện 
qua một số lĩnh vực khoa học sau: 
a. Trong Y học 
Phương pháp BAPNE8 dùng bộ gõ cơ thể để điều trị các bệnh lí về thần kinh, trí 
não dựa trên cơ sở khoa học của năm chuyên ngành khoa học: Sinh học, Giải phẫu học, 
Tâm lí học, Thần kinh học, Âm nhạc dân tộc học. Từ quan điểm điều trị bệnh lí, bộ gõ cơ 
thể có giá trị rất lớn, chính là nền tảng trị liệu hiệu quả đối với các bệnh nhân bị bệnh 
Alzheimer9, Parkinson10, Down11, tổn thương não, hội chứng khó đọc, rối loạn chuyển 
động, tự kỉ, hội chứng trầm cảm; và đã thu được những kết quả khả quan. Thông qua các 
bài tập bệnh nhân cải thiện được nhận thức, tâm lí. Ứng dụng này giống việc điều trị vật lí 
trị liệu, mang lại hiệu quả tích cực cho người bệnh. Bên cạnh đó, phương pháp BAPNE 
còn chú trọng giáo dục sớm cho trẻ em từ 3-6 tuổi giúp phát triển hệ thần kinh trung ương 
và trí não cho trẻ (Naranjo, 2013). 
b. Trong giáo dục - rèn luyện thể chất 
Hoạt động rèn luyện thể chất cơ bản đó chính là sự vận động cơ thể để giúp tiêu hao 
calorie (cal), giảm chất béo (lipit) trong cơ thể. Tương tự như rèn luyện các động tác thể 
dục (gym), rèn luyện bộ gõ cơ thể cũng giúp ích trong việc tiêu hao năng lượng thừa trong 
cơ thể, đặc biệt rèn luyện ở cường độ cao. 
c. Trong giáo dục âm nhạc 
Đến thế kỉ XX, các phương pháp giáo dục âm nhạc rất phát triển từ những nghiên 
cứu của các nhà sư phạm như: Dalcroze, Orff-Schulwerk, Kodály, Montessori12, nhà 
triết học Maurice Merleau-Ponty13 và nhà tâm lí học lâm sàng, lí luận giáo dục Thomas 
Gordon14. Họ cho rằng âm nhạc không còn được xem là một hiện tượng thuần túy về trí tuệ 
mà là một trải nghiệm về thân thể, vì thế trong các phương pháp giáo dục âm nhạc trên đều 
có chung quan điểm cho rằng: “vận động cơ thể giúp phát triển khả năng tiếp thu và sáng 
8 BAPNE: là từ viết tắt của năm môn khoa học Biomechanics, Anatomy, Psychology, Neuroscience, và 
Ethnomusicology. Mục đích của phương pháp này chính là phát triển trí não thông qua công cụ Bộ gõ cơ thể. 
9 Bệnh Alzheimer (hay gọi là AD, SDAT). Vào năm 1906, bác sĩ tâm lí và thần kinh học người Đức Alois Alzheimer đã 
phát hiện ra căn bệnh này. 
10 Bệnh Parkinson (hay gọi là PD) là một rối loạn của hệ thần kinh trung ương gây ảnh hưởng đến khả năng cử động và 
kiểm soát cơ thể của bệnh nhân. 
11 Hội chứng Down do đột biến số lượng nhiễm sắc thể ở nhiễm sắc thể 21. 
12 Maria Montessori (1870 – 1952): là nhà trị liệu, giáo dục người Ý. 
13 Maurice Merleau-Ponty (1908 – 1961): nhà triết học người Pháp. 
14 Thomas Gordon (1918 – 2002): nhà tâm lí học lâm sàng, lí luận giáo dục người Mĩ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 4 (2019): 170-179 
178 
tạo âm nhạc”. Phương pháp Orff-Schulwerk phát triển việc sử dụng bộ gõ cơ thể một cách 
triệt để, như là một công cụ trong luyện tập âm nhạc; tạo ra những hoạt động đặc biệt mà 
ông và những nhà sư phạm âm nhạc đã tổng hợp, kế thừa và hệ thống. Bộ gõ cơ thể có thể 
được trình diễn độc tấu hoặc một số nghệ sĩ có thể kết hợp để tạo ra một tác phẩm âm 
nhạc. Một trong những nghệ sĩ solo thành công nhất đó là Keith Terry15, San Francisco – 
California – USA. 
Bộ gõ cơ thể được sử dụng rộng rãi trong nền giáo dục âm nhạc ở các nước tiên tiến, 
do khả năng tiếp cận của nó, xem cơ thể con người là một nhạc cụ và là dụng cụ duy nhất 
mà mỗi học sinh sở hữu trước khi học những nhạc cụ khác. Sử dụng bộ gõ cơ thể cho học 
sinh trải nghiệm trực tiếp các yếu tố âm nhạc như: nhịp điệu, tiết tấu, sự vận động của âm 
nhạc. 
Bộ gõ cơ thể còn được sử dụng trong hợp xướng với các mục đích khác nhau. Kết 
hợp trong sự sáng tạo, cộng hưởng các yếu tố về âm thanh để tạo nên một sự trải nghiệm 
mới về việc nghe và cảm thụ hợp xướng. Ví dụ: sự kết hợp các tiếng động chà xát bàn tay, 
dậm chân, búng ngón tay tạo thành những tiếng mô phỏng gió, mưa, sấm chớp trước khi 
vào phần hát; hoặc là phần nhạc đệm cho tác phẩm hợp xướng (không dùng dàn nhạc đệm 
hoặc nhạc nền); hoặc kết hợp cùng với dàn nhạc giao hưởng đệm cho hợp xướng đồng thời 
làm tăng thêm yếu tố về cảnh trí và bố cục về mặt dàn dựng, làm cho tác phẩm hợp xướng 
thêm sinh động và thu hút. 
3. Kết luận 
Thông qua nghiên cứu các vấn đề lí luận và thực tiễn có thể chứng minh rằng ứng 
dụng bộ gõ cơ thể trong hoạt động dạy học âm nhạc rất cần thiết và hiệu quả. Học sinh có 
thể tiếp cận với âm nhạc một cách trực tiếp, đơn giản và tự nhiên. Các vận động cơ thể 
giúp học sinh trải nghiệm được các yếu tố lí tính khi tự chủ động chạm vào cơ thể của 
mình. Bên cạnh đó, phương thức âm nhạc này còn giúp học sinh phát triển trí não, hệ thần 
kinh và khả năng tư duy. Việc vận dụng bộ gõ cơ thể trong giáo dục âm nhạc có thể phát 
triển năng lực cảm thụ và vận động âm nhạc cho học sinh, mang lại ý nghĩa quan trọng 
trong việc hình thành những năng lực cần thiết để thể hiện âm nhạc, cảm thụ và hiểu biết 
âm nhạc, ứng dụng và sáng tạo âm nhạc. Qua đó, hình thành và phát triển các phẩm chất 
âm nhạc nổi bậc, nhằm định hướng phát triển rèn luyện bộ môn nghệ thuật này, đồng thời 
giáo dục và rèn luyện nhân cách cho học sinh. 
Đối với chương trình giáo dục xây dựng theo định hướng phát triển năng lực, hoạt 
động dạy học nói chung và hoạt động dạy học âm nhạc nói riêng đã chuyển sang một bước 
tiếp cận mới về nội dung, phương pháp và đánh giá. Học sinh không còn học âm nhạc một 
cách thụ động, mà thông qua hoạt động dạy học của giáo viên, giúp học sinh trải nghiệm 
và khám phá năng lực của bản thân bằng âm nhạc. Bộ gõ cơ thể có thể được cho là “mới”, 
15 Keith Terry (1951): nghệ sĩ biểu điễn Body Percussion người Mĩ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Đăng Bửu 
179 
là “lạ” đối với giáo dục âm nhạc Việt Nam, nhưng nếu được nghiên cứu và vận dụng một 
cách hệ thống, chắc chắn mang lại niềm vui, sự hứng khởi cho học sinh; tạo môi trường 
học tập âm nhạc sôi động và đa dạng trong chương trình giáo dục nhà trường. 
 Tuyên bố về quyền lợi: Tác giả xác nhận hòan toàn không có xung đột về quyền lợi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Hồ Ngọc Khải. (2012). Khái quát về một số phương pháp dạy học âm nhạc cho trẻ em tại Hoa Kì 
hiện nay. Kỉ yếu Hội thảo khoa học về dạy học Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục ở trường phổ 
thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo. 
Campbell, P. S. (1991). Rhymic movement and public school education: progressive views in the 
formative years, (12-22). American Music Education. 
Meghranjani Medhi. (2018). Khai thác từ: https://www.youtube.com/watch?v=1ZmCmQjoehw, truy 
cập ngày 17/5/2018, 
Naranjo, F. J. (2013). Science & Art of Body Percussion. University of Alicante. 
Prezi. (2015). Body Percussion and the history. Khai thác từ https://prezi.com/ne9mufjlruv7/body-
percussion-the-history/, truy cập từ 15.03.2018: 
Richard Filz. (2005). Body Percussion Sounds and Rhythms. A Comprehensive 
Training System. 
Shamrock, M. (2007). American Orff-Schulwerk Association. The Orff-Schulwerk Approach. 
BODY PERCUSSION FROM CONCEPT TO APPLICATION IN MUSIC EDUCATION 
Nguyen Dang Buu 
Vietnam Education Publishing House Limited Company at HCM City 
Corresponding author: Nguyen Dang Buu – Email: dangbuu2013@gmail.com 
Received:19/10/2018; Revised: 28/10/2018; Accepted: 25/4/2019 
ABSTRACT 
Body percussion, a teaching tool of Orff-Schulwerk music education approach, is an art of 
creating sounds from different parts of the humn body. This article provides basic knowledge of 
body percussion in order to help music teachers and university students fulfill their educational 
duty when the new music curriculum is realized in the next years. 
Keywords: body percussion, music teaching content, new music teaching method, 
Orff-Schulwerk method. 

File đính kèm:

  • pdfbo_go_co_the_tu_khai_niem_den_ung_dung_trong_giao_duc_am_nha.pdf