Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự dưới góc nhìn của phương pháp tiếp cận quyền

Biện pháp ngăn chặn tạm giam được quy định trong luật tố tụng hình sự (TTHS) được

xem là tất yếu của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Theo quan niệm truyền thống, biện pháp này,

ngoài mục đích ngăn chặn tội phạm còn có mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Quan niệm này được thừa nhận khá rộng

rãi trong khoa học và được thể hiện trong luật TTHS ở những nước theo Hệ thống xã hội chủ nghĩa,

trong đó có Việt Nam. Những năm gần đây, phương pháp tiếp cận quyền trong xây dựng, thực thi

pháp luật dần trở thành xu thế được thừa nhận trong giới học giả đã làm thay đổi nhận thức về biện

pháp ngăn chặn tạm giam trong TTHS. Kết quả là sự khởi đầu của các quy định về biện pháp ngăn

chặn dựa trên sự tôn trọng, bảo vệ quyền con người của người bị tạm giam. Bài viết này sẽ tập trung

phân tích các nội dung của biện pháp ngăn chặn tạm giam dưới góc nhìn của phương pháp tiếp cận

quyền nhằm cung cấp cho bạn đọc cách nhìn nhận vấn đề xuất phát từ việc tôn trọng, bảo đảm, bảo

vệ quyền con người trong TTHS và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam

về biện pháp ngăn chặn tạm giam trên cơ sở phương pháp tiếp cận quyền.

pdf 12 trang kimcuc 3480
Bạn đang xem tài liệu "Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự dưới góc nhìn của phương pháp tiếp cận quyền", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự dưới góc nhìn của phương pháp tiếp cận quyền

Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự dưới góc nhìn của phương pháp tiếp cận quyền
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 70-81 
70 
Original Article 
The Implementation of Preventive Detention in Vietnam: 
A Human Rights Approach 
Hoang Tam Phi* 
Hanoi Bar Association, 713 Lac Long Quan street,Phu Thuong ward, Tay Ho district, Hanoi 
Received 12 August 2019 
Revised 01 September 2019; Accepted 19 September 2019 
Abstract: According to provisions of the Criminal procedure code, preventive detention is 
considered to be indispensable in the settlement of criminal cases. From the traditional point of view, 
beside the purpose of preventing crimes, this measure is also used to create favorable conditions for 
the competent authority to conduct criminal proceedings in the settlement of cases. This is a popular 
opinion in field of legal science that can be seen in the criminal procedure code of many socialist 
countries, including Vietnam. In recent years, the method that approaches rights (rights-based 
approach) in process of law legislation and enforcement has become a recognized trend among the 
academics which has changed the perception of detention deterrent measures in criminal 
proceedings. This result sets a dawn for regulations on deterrent measures based on the respect and 
protection of human rights of detainees. This article will focus on analyzing the content of 
regulations on preventive detention under the perspective of a rights-based approach to provide the 
readers with a view arising from the need of respecting, ensuring and protecting human rights in 
criminal proceedings, as well as proposing some recommendations on preventive detention on the 
basis of the human rights-based approach in order to improve the regulations on preventive detention 
in Vietnam's procedure law. 
Keywords: Rights-based approach, Preventive detention, Detainee, Human rights of detainees. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: phihoang1001@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4237 
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 70-81 
71 
Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự 
dưới góc nhìn của phương pháp tiếp cận quyền 
Hoàng Tám Phi* 
Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, số 713 đường Lạc Long Quân, 
phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội 
Nhận ngày 12 tháng 8 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 01 tháng 9 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 9 năm 2019 
Tóm tắt: Biện pháp ngăn chặn tạm giam được quy định trong luật tố tụng hình sự (TTHS) được 
xem là tất yếu của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Theo quan niệm truyền thống, biện pháp này, 
ngoài mục đích ngăn chặn tội phạm còn có mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan có thẩm 
quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Quan niệm này được thừa nhận khá rộng 
rãi trong khoa học và được thể hiện trong luật TTHS ở những nước theo Hệ thống xã hội chủ nghĩa, 
trong đó có Việt Nam. Những năm gần đây, phương pháp tiếp cận quyền trong xây dựng, thực thi 
pháp luật dần trở thành xu thế được thừa nhận trong giới học giả đã làm thay đổi nhận thức về biện 
pháp ngăn chặn tạm giam trong TTHS. Kết quả là sự khởi đầu của các quy định về biện pháp ngăn 
chặn dựa trên sự tôn trọng, bảo vệ quyền con người của người bị tạm giam. Bài viết này sẽ tập trung 
phân tích các nội dung của biện pháp ngăn chặn tạm giam dưới góc nhìn của phương pháp tiếp cận 
quyền nhằm cung cấp cho bạn đọc cách nhìn nhận vấn đề xuất phát từ việc tôn trọng, bảo đảm, bảo 
vệ quyền con người trong TTHS và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam 
về biện pháp ngăn chặn tạm giam trên cơ sở phương pháp tiếp cận quyền. 
Từ khóa: Phương pháp tiếp cận quyền, biện pháp ngăn chặn tạm giam, người bị tạm giam, quyền 
của người bị tạm giam.
I. Phương pháp tiếp cận quyền về biện pháp 
ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự * 
1.1. Khái niệm 
Những nghiên cứu gần đây đề cập nhiều đến 
phương pháp tiếp cận quyền với các quan điểm 
khác nhau về phạm vi nội dung cũng như sự thể 
________ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: phihoang1001@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4237 
hiện của phương pháp này trong hoạt động xây 
dựng pháp luật, tổ chức thực thi pháp luật và các 
bảo đảm, kiểm soát quyền con người trong thực 
tiễn đời sống xã hội. Tuy nhiên, đa số đều cho 
rằng Phương pháp tiếp cận quyền là cách tiếp 
cận lấy con người là trung tâm để xem xét và giải 
quyết vấn đề [1, tr.18]. Nói cách khác, tiếp cận 
dựa trên quyền con người là phương pháp tiếp 
H.T. Phi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 70-81 
72 
cận lấy các tiêu chuẩn về con người làm cơ sở để 
xác định kết quả mong đợi và lấy các nguyên tắc 
về quyền con người làm điều kiện, khuôn khổ 
cho quá trình đạt được kết quả đó [2]. Việc tiếp 
cận dựa trên quyền là mang ý nghĩa quan trọng 
về mặt pháp lý, đạo đức và sẽ dẫn đến các kết 
quả phát triển con người tốt hơn, bền vững hơn 
[1, tr.168]. Bởi lẽ, quyền con người là các quy 
tắc quốc tế về đạo đức áp dụng đối với tất cả nhân 
loại bất kể quốc tịch, nơi sinh sống, giới tính, 
nguồn gốc chủng tộc, màu da, tôn giáo, ngôn ngữ 
hoặc bất kỳ đặc điểm nào khác. Sự đáp ứng các 
quyền cơ bản của con người đồng nghĩa với việc 
con người được đảm bảo các nền tảng ổn định 
nhất cho sự phát triển [1, tr.21]. Do đó, tiếp cận 
dựa trên quyền bảo đảm và thúc đẩy những quyền 
cơ bản nhằm tạo nên điều kiện cơ bản cho con 
người phát triển. Đồng thời đề cao nghĩa vụ của 
những chủ thể có trách nhiệm bảo đảm, bảo vệ 
quyền con người, nhấn mạnh nghĩa vụ đạo đức 
của những chủ thể đó. Xét về mặt pháp lý, quyền 
con người là bảo đảm pháp lý mang tính toàn cầu 
về mặt dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội 
bảo vệ các cá nhân và ở mức độ nhất định, là các 
bảo vệ đối với một nhóm người chống lại những 
hành vi hoặc bất hành vi làm ảnh hưởng tới tự do, 
quyền lợi và nhân phẩm của họ [3]. 
Phương pháp tiếp cận quyền về biện pháp 
ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng hình sự 
có thể hiểu là cách tiếp cận lấy quyền con người 
của người bị tạm giam là trung tâm để xem xét, 
giải quyết vấn đề xây dựng, thực hiện quy định 
về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật 
TTHS. Cách tiếp cận quyền, một mặt thừa nhận 
tính cưỡng chế của biện pháp ngăn chặn tạm 
giam nhưng đã nhấn mạnh việc bảo đảm quyền 
con người của người bị áp dụng biện pháp ngăn 
chặn tạm giam. Do vậy, trong các định nghĩa 
theo cách tiếp cận quyền thường chỉ nêu mục 
đích ngăn chặn tội phạm mà không nêu mục đích 
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giải quyết 
vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền tiến 
hành tố tụng và đặc biệt nhấn mạnh đến tính có 
căn cứ cũng như tuân thủ chặt chẽ thủ tục khi áp 
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Theo đó, 
tạm giam (Pre-trial Detention) được hiểu là một 
biện pháp cưỡng chế mà một người bị buộc tội bị 
giam giữ. Biện pháp ngăn chặn tạm giam được cơ 
quan tư pháp ra lệnh tại giai đoạn xét xử trước hoặc 
xét xử để đảm bảo sự xuất hiện của người đó trước 
Tòa án, ngăn chặn hoạt động tội phạm của họ hoặc 
ngăn chặn sự can thiệp bất hợp pháp vào việc điều 
tra vụ án [4]. 
1.2. Nội dung của phương pháp tiếp cận quyền 
về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng 
hình sự 
1.2.1. Căn cứ, trình tự, thủ tục áp dụng chặt 
chẽ, hợp pháp 
Theo Giáo sư luật học I.L. Petrukhin thì căn 
cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn không phải là 
sự kiện bị cáo thực hiện hành vi vi phạm nghĩa 
vụ tố tụng mà là sự dự báo có đầy đủ cơ sở về 
khả năng thực hiện hành vi bất lợi của bị cáo [5, 
tr.53]. Những hành vi bất lợi của bị cáo được 
hiểu là: hành vi trốn tránh hoạt động điều tra, xét 
xử; hoặc gây khó khăn cho việc thi hành án hình 
sự; gây khó khăn cho việc xác định sự thật của 
vụ án; hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội. Do đó, 
không thể lấy tính chất mức độ nguy hiểm của 
tội phạm làm căn cứ duy nhất để áp dụng biện 
pháp ngăn chặn tạm giam. Một số trường hợp bị 
can, bị cáo khi bị phát hiện hành vi có dấu hiệu 
tội phạm thì ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo 
để mong được hưởng chính sách khoan hồng, 
giảm nhẹ hình phạt theo quy định của pháp luật. 
Có những trường hợp tuy phạm tội rất nghiêm 
trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng là 
bột phát, không dự mưu, do nhất thời không làm 
chủ được mình. Ngoài ra có rất nhiều vụ án, ban 
đầu bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử với 
tội rất nghiêm trọng, đặt biệt nghiêm trọng 
nhưng về sau lại được thay đổi với tội nhẹ hơn. 
Nếu chỉ căn cứ vào loại tội phạm mà bị can, bị 
cáo bị tình nghi phạm tội để áp dụng biện pháp 
ngăn chặn tạm giam sẽ ảnh hưởng lớn đến quyền 
và lợi ích của những chủ thể này. Hơn nữa, vì là 
biện pháp ngặn chặn nên căn cứ áp dụng biện 
pháp ngăn chặn phải là căn cứ có thật, phải chứa 
đựng những thông tin khách quan, đầy đủ, toàn 
diện, chính xác về tính chất, mức độ nguy hiểm 
cho xã hội của hành vi có dấu hiệu tội phạm. Cụ 
thể, cần căn cứ vào nhân thân của đối tượng (như 
H.T. Phi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 70-81 
73 
tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe, 
thái độ làm việc, thái độ trong quan hệ với người 
khác, trình độ học vấn, lối sống, hoàn cảnh gia 
đình, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tiền án, 
tiền sự) để dự báo được khả năng thực tế có thể 
xảy ra một sự việc phạm tội khác, bỏ trốn hoặc 
cản trở hoạt động tố tụng, mà không thể là căn 
cứ mang tính suy diễn từ tính chất và mức độ 
nguy hiểm của hành vi có dấu hiệu phạm tội mà 
họ bị cho là đã thực hiện. 
Các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm 
giam cần phải chặt chẽ. Bởi lẽ, xuất phát từ đặc 
điểm về tính hạn chế tự do thân thể của bị can, bị 
cáo khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam 
và việc áp dụng chỉ trong những trường hợp nhất 
định, nên những căn cứ để áp dụng biện pháp 
ngăn chặn tạm giam phải luôn chặt chẽ, việc thực 
hiện phải đúng trình tự thủ tục, nhằm hạn chế sự 
tùy tiện hoặc áp dụng trái pháp luật, từ đó không 
bảo đảm được các quyền con người của bị can, 
bị cáo. Vì vậy, thủ tục áp dụng thường được quy 
định chặt chẽ và tuân thủ đầy đủ trong các đạo 
luật TTHS của các quốc gia. 
Việc bắt giam phải bảo đảm tuân thủ đầy đủ 
các quy định của pháp luật và tránh sự tùy tiện. 
Cũng cần lưu ý rằng, sự bắt giữ cũng có thể bị 
coi là không hợp pháp theo pháp luật quốc tế cả 
trong trường hợp việc bắt một người có căn cứ, 
nhưng việc giam giữ sau đó là không cần thiết. 
Chẳng hạn, trong vụ Spakmo kiện Na Uy, thì 
một người bị bắt hai (02) lần vì không tuân thủ 
lệnh của cảnh sát về yêu cầu chấm dứt việc đập 
phá tại một địa điểm, do đó cả hai (02) lần bắt 
đều có căn cứ, nhưng sau đó cơ quan có thẩm 
quyền của quốc gia này đã không chứng minh 
được việc giam giữ tám (08) tiếng sau lần bắt giữ 
thứ hai là hợp lý, nên việc giam giữ này bị coi là 
vi phạm khoản 1 Điều 9 Công ước quốc tế về các 
quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên 
Hợp quốc (ICCPR). Bởi vì, tạm giam là biện 
pháp ngăn chặn chứ không phải là biện pháp 
trách nhiệm hình sự. 
Tóm lại, tạm giam là biện pháp ngăn chặn có 
tính nghiêm khắc nhất của TTHS. Việc áp dụng 
biện pháp ngăn chặn tạm giam làm cho đối tượng 
bị áp dụng bị cách ly khỏi xã hội trong một thời 
gian nhất định, từ đó làm hạn chế một số quyền 
con người, quyền công dân của người bị tạm 
giam. Việc áp dụng biện pháp bắt hay tạm giữ, 
tạm giam sẽ hạn chế đến quyền và tự do cá 
nhân, cũng như quyền bất khả xâm phạm về 
thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Do 
vậy, pháp luật quốc tế về quyền con người rất 
quan tâm đến việc bảo vệ quyền tự do thân thể 
và an ninh cá nhân. Điều này được thể hiện 
trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 
năm 1948 (UDHR) và Công ước quốc tế về các 
quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên 
Hợp quốc. Trong đó quyền tự do và an ninh cá 
nhân được quy định trong Tuyên ngôn thế giới 
về quyền con người năm 1948: “không ai bị 
bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện” 
(Điều 9) [6, tr.810]. Vì vậy, hoạt động TTHS 
về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam 
chỉ được thực hiện trong trường hợp cần thiết 
và đúng trình tự thủ tục áp dụng. 
1.2.2. Bảo đảm quyền con người trong quá 
trình tạm giam 
Việc bắt, giam giữ để được áp dụng đúng 
phải dựa trên các căn cứ hợp lý, điều này nhằm 
bảo vệ quyền của người bị tạm giam. Đây là 
quyền con người được pháp luật bảo vệ, cả trong 
luật pháp quốc tế và quốc gia. Tuyên ngôn quốc 
tế về nhân quyền nhấn mạnh: “không ai bị bắt, 
giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện” [6, 
tr.810]. Nhằm cụ thể hóa Tuyên ngôn quốc tế về 
nhân quyền, Công ước quốc tế về các quyền dân 
sự và chính trị năm 1966 tiếp tục chế định hóa: 
(i) Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an 
toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc bị giam giữ 
vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường 
hợp việc tước tự do đó là có lý do và theo đúng 
những thủ tục mà luật pháp đã quy định; (ii) Bất 
cứ người nào bị bắt giữ đều phải được thông báo 
không chậm trễ về sự buộc tội đối với họ; (iii) 
Bất cứ người nào bị bắt hoặc bị giam giữ vì một 
tội hình sự phải được sớm đưa ra tòa án hoặc một 
cơ quan tài phán có thẩm quyền thực hiện chức 
năng tư pháp và phải được xét xử trong một thời 
hạn hợp lý hoặc được trả tự do. Việc tạm giam 
một người trong thời gian chờ xét xử không được 
đưa thành nguyên tắc chung, nhưng việc trả tự 
do cho họ có thể kèm theo những điều kiện để 
bảo đảm họ sẽ có mặt tại Tòa án để xét xử bất cứ 
H.T. Phi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 70-81 
74 
khi nào và để thi hành án nếu bị kết tội; (iv) Bất 
cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước 
tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước 
tòa án, nhằm mục đích để Tòa án đó có thể quyết 
định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc 
giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc 
giam giữ là bất hợp pháp; (v) Bất cứ người nào 
trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam 
giữ bất hợp pháp đều có quyền được yêu cầu bồi 
thường [7, tr.502, 503]. 
Đối với những bị can, bị cáo là phụ nữ có 
thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là 
người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư 
trú và lý lịch rõ ràng thì cho dù phạm loại tội gì 
cũng không tạm giam mà áp dụng biện pháp 
ngăn chặn khác. Tuy nhiên, họ có thể bị áp dụng 
biện pháp tạm giam nếu bỏ trốn và bị bắt theo 
quyết định truy nã, hoặc tiếp tục phạm tội, hay 
có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người 
khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự 
thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật 
của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe 
dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, 
người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của 
những người này; hoặc tội phạm mà họ thực hiện 
là về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn 
cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì 
sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Việc quy 
định này đã thể hiện rất rõ nguyên tắc nhân đạo, 
tôn trọng và bảo đảm quyền con người nói 
chung, trong đó có quyền của phụ nữ và trẻ em 
nói riêng. Bởi vì, với những điều kiện sinh hoạt 
trong trại giam thì không thể bảo đảm được đầy 
đủ nhu cầu cần thiết của phụ nữ có thai, phụ nữ 
nuôi con nhỏ dưới 36 ... ơ chế giám sát và bảo đảm thực thi vẫn 
là một khâu yếu dẫn đến tình trạng lạm dụng của 
phía cơ quan, người tiến hành tố tụng gây oan, 
sai cho người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn 
tạm giam. cụ thể: 
Thứ nhất, vẫn còn xảy ra hiện tượng lạm 
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Nhiều 
trường hợp bị can phạm vào các tội nghiêm 
trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm 
trọng không có dấu hiệu bỏ trốn, tiếp tục phạm 
tội hoặc tiêu hủy chứng cứ nhưng Viện kiểm sát 
vẫn phê chuẩn lệnh tạm giam theo đề nghị của 
cơ quan điều tra. Hoặc ở một số vụ án, tình trạng 
áp dụng tạm giam tùy tiện, cơ quan tiến hành tố 
tụng coi tạm giam như một công cụ điều tra, xâm 
phạm đến quyền tự do của công dân. Điều này 
minh chứng rằng, việc áp dụng biện pháp ngăn 
chặn tạm giam trong thực tiễn của người tiến 
hành tố tụng chưa chú trọng đến quyền con 
người, quyền hợp pháp của bị can, bị cáo mà chỉ 
quan tâm đến việc áp dụng biện pháp ngăn chặn 
như một cách thức hiệu quả phục vụ cho việc giải 
quyết vụ án. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn 
tạm giam tràn lan như trên là nguyên nhân chính 
gây ảnh hưởng đến quyền con người. 
Thứ hai, tỷ lệ bị can, bị cáo bị tạm giam sau 
đó được trả tự do vì không thực hiện hành vi 
phạm tội còn tương đối cao. Theo thống kê, trong 
số 841.449 trường hợp bị áp dụng biện pháp 
ngăn chặn tạm giam đã được giải quyết có: trả tự 
do khi có quyết định đình chỉ đối với 3.625 đối 
tượng; số chuyển chấp hành án là 635.242 đối 
tượng; số VKSND trả tự do theo Luật Tổ chức 
VKSND là 231 đối tượng [16]. Mặt khác, số 
người bị tạm giam Cơ quan điều tra đình chỉ 
do không tội là 161 trường hợp; số tạm giam 
VKSND đình chỉ không tội là 34 trường hợp; 
số tạm giam tòa án tuyên không tội 78 trường 
hợp [16]. Đối với các trường hợp này, việc 
khởi tố bị can và phê chuẩn quyết định khởi tố 
bị can là không có căn cứ dẫn tới việc xác định 
căn cứ tạm giam bị can và phê chuẩn lệnh tạm 
giam cũng mắc sai lầm. Nhận định ban đầu của 
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành 
tố tụng về trường hợp phạm tội của bị can, bị 
cáo là chưa chính xác và có thể sẽ xâm phạm 
nghiêm trọng đến quyền con người, quyền cơ 
bản của công dân. 
Thứ ba, vẫn còn một số trường hợp bị tạm 
giam nhưng sau đó được miễn trách nhiệm hình 
sự, được miễn hình phạt, được hưởng án treo 
hoặc xử phạt tù nhưng thời hạn tù bằng hoặc ít 
hơn thời hạn tạm giam. Thí dụ, từ năm 2009 đến 
năm 2013, trong số 1.001.137 trường hợp tạm 
giam, có: 187 trường hợp được miễn trách nhiệm 
hình sự; 904 trường hợp được miễn hình phạt; 
H.T. Phi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 70-81 
79 
12.015 trường hợp được hưởng án treo; 7.464 
trường hợp xử phạt tù nhưng thời hạn tù bằng 
hoặc ít hơn thời hạn tạm giam [17, 18]. Đây là 
những trường hợp khởi tố bị can là có căn cứ tuy 
nhiên không có căn cứ áp dụng biện pháp ngăn 
chặn tạm giam hoặc việc áp dụng là không cần 
thiết. Bị can trong các trường hợp này có những 
tình tiết như đặc điểm nhân thân, thái độ hợp tác 
với cơ quan điều tra, tính chất, mức độ nguy 
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà sau này 
được tòa án sử dụng để áp dụng các hình thức xử 
lý hình sự ít nghiêm khắc như trên đối với bị can, 
bị cáo. Những trường hợp như trên là biểu hiện 
rõ ràng của sự xâm hại đến quyền con người, 
quyền cơ bản của công dân khi biện pháp ngăn 
chặn tạm giam được coi là biện pháp phổ biến, 
hữu hiệu nhất và có thể áp dụng đối với mọi 
trường hợp phạm tội mà theo nhận thức của 
người tiến hành tố tụng là cần thiết. 
Thứ tư, việc vận dụng các căn cứ để áp dụng 
biện pháp ngăn chặn tạm giam còn chưa tuân thủ 
đúng các quy định của pháp luật. Qua dữ liệu 
khảo sát các trường hợp áp dụng sai căn cứ tạm 
giam cho thấy có những trường hợp phạm tội 
nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng được 
viện kiểm sát phê chuẩn lệnh tạm giam chỉ với lý 
do để phục vụ việc điều tra, thu thập chứng cứ 
được thuận lợi. Không ít trường hợp các cơ quan 
tiến hành tố tụng lạm dụng áp dụng biện pháp 
tạm giam trong khi có thể áp dụng các biện pháp 
ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn. 
Thứ năm, tình trạng tạm giam quá hạn còn 
xảy ra tương đối nhiều. Các cơ quan tiến hành tố 
tụng còn chưa chú trọng giải quyết triệt để trách 
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo đang bị tạm 
giam. Điều này dẫn đến tình trạng số lượng tạm 
giam theo các năm gần đây không hề có xu 
hướng giảm [xem thêm: 19]. Tình trạng quá hạn 
tạm giam đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền 
và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. 
3. Kiến nghị về biện pháp ngăn chặn tạm giam 
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam từ góc 
nhìn của phương pháp tiếp cận quyền 
Quyền con người thường có nguy cơ bị xâm 
phạm trong hoạt động TTHS. Các quyền con 
người cần phải được chú ý trong mọi hoạt động 
TTHS nói chung cũng như biện pháp ngăn chặn 
tạm giam là quyền sống, quyền được pháp luật 
bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; 
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, không bị 
tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ 
hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, 
sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm và 
không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa 
án. Do đó, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận 
nhiều biện pháp bảo đảm thực hiện quyền con 
người. Tuy nhiên, quy định của BLTTHS Việt 
Nam hiện hành vẫn còn những quy định thể hiện 
sự coi trọng việc áp dụng biện pháp ngăn chặn 
tạm giam so với các biện pháp ngăn chặn không 
tước tự do khác. Từ góc nhìn của phương pháp 
tiếp cận quyền, tác giả đưa ra một số kiến giải về 
biện pháp ngăn chặn tạm giam trong TTHS tại 
Việt Nam, nhằm đa dạng hóa góc nhìn trong quá 
trình lập pháp và thực thi pháp luật tại Việt Nam 
như sau: 
Thứ nhất, quy định về tính độc lập cũng như 
cách sắp xếp biện pháp ngăn chặn tạm giam với 
các biện pháp ngăn chặn khác. Hiện nay, 
BLTTHS Việt Nam đang sắp xếp biện pháp ngăn 
chặn tạm giam trước các biện pháp ngăn chặn 
cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài 
sản có giá trị để bảo đảm. Đồng thời cách quy 
định về căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn 
này cũng đang theo hướng nếu các căn cứ áp 
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam không thỏa 
mãn hoặc không còn cần thiết thì mới cân nhắc 
đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không 
tước tự do. Theo kinh nghiệm của luật TTHS 
Trung Quốc, Liên bang Nga, Nhật Bản [20] thì 
biện pháp ngăn chặn tạm giam là biện pháp độc 
lập với các biện pháp ngăn chặn không tước tự 
do khác như bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt 
tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Việc áp dụng các 
biện pháp ngăn chặn không tước tự do của người 
phạm tội không phải là một biện pháp thay thế 
biện pháp tạm giam mà có các căn cứ cụ thể, 
tương xứng với tính chất, mức độ thực hiện hành 
vi của người phạm tội. Hơn nữa, trong các 
BLTTHS này, biện pháp ngăn chặn tạm giam 
được quy định chỉ được áp dụng khi việc áp dụng 
các biện pháp ngăn chặn không tước tự do khác 
H.T. Phi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 70-81 
80 
không phát huy tác dụng (việc phải tước tự do 
của người phạm tội bằng biện pháp ngăn chặn 
tạm giam là biện pháp cuối cùng). Điều này cũng 
được thể hiện trong cả kỹ thuật lập pháp khi sắp 
xếp quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giam 
sau quy định về các biện pháp ngăn chặn khác. 
Như vậy, theo đúng logic, các cơ quan có thẩm 
quyền phải cân nhắc căn cứ áp dụng các biện 
pháp ngăn chặn khác trước khi cân nhắc căn cứ 
áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. 
Thứ hai, về ghi nhận cụ thể các yếu tố cần 
phải cân nhắc khi áp dụng biện pháp ngăn chặn 
tạm giam. Về bản chất, những yếu tố này không 
được quy định cụ thể để trở thành căn cứ áp dụng 
hoặc không áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm 
giam. Theo kinh nghiệm một số quốc gia như 
Liên bang Nga, Trung Quốc thì được ghi nhận 
để các cơ quan có thẩm quyền phải xem xét để 
cân nhắc áp dụng. BLTTHS Liên bang Nga [20] 
nêu ra một số tình tiết gồm: tính chất, mức độ 
nghiêm trọng của hành vi phạm tội; nhân thân 
của người bị tình nghi, bị can; tuổi tác, tình trạng 
sức khoẻ, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp và 
những tình tiết khác. BLTTHS Trung Quốc tuy 
không có điều luật cụ thể nhưng cũng nêu ra các 
trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam 
(mặc dù có đủ căn cứ để áp dụng biện pháp này) 
mà áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối 
với bị can, bị cáo: Bị bệnh nặng, không thể tự 
chăm sóc bản thân; Phụ nữ đang mang thai hoặc 
đang cho con bú; Là người phụng dưỡng duy 
nhất của người không đủ khả năng chăm sóc bản 
thân; Do tính chất đặc thù của vụ án hoặc cần 
thiết cho việc giải quyết vụ án, áp dụng cấm đi 
khỏi nơi cư trú là phù hợp nhất. Những tình tiết 
này phản ảnh những đặc điểm riêng có của bị 
can, bị cáo mà các cơ quan tiến hành tố tụng và 
người tiến hành tố tụng phải cân nhắc nếu muốn 
bảo đảm hiệu quả cao nhất của biện pháp ngăn 
chặn tạm giam. Những quy định này cũng thể 
hiện chính sách của các quốc gia trong việc bảo 
đảm việc áp dụng biện pháp ngăn chặn hạn chế 
quyền tự do thân thể với bị can, bị cáo phù hợp 
nhất.Thực chất, trong các quy định về biện pháp 
tạm giam trong BLTTHS Việt Nam cũng thể 
hiện việc cân nhắc đến các yếu tố này, tuy nhiên 
chưa có sự ghi nhận thành một điều luật riêng mà 
còn quy định mở, tạo sự tuỳ nghi trong áp dụng. 
Thứ ba, về việc mở rộng thẩm quyền áp dụng 
biện pháp ngăn chặn tạm giam có cả thẩm phán. 
Theo kinh nghiệm của pháp luật TTHS các quốc 
gia như: Liên bang Nga, Cộng hòa liên bang 
Đức, Nhật Bản thì thẩm phán cũng có thẩm 
quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam 
[20]. Hiện tại, BLTTHS Việt Nam chỉ quy định 
thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm 
giam thuộc về Chánh án. BLTTHS Việt Nam có 
thể tiếp thu kinh nghiệm các nước để mở rộng 
thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm 
giam theo hướng quy định thẩm phán được phân 
công chủ tọa phiên tòa cũng có quyền áp dụng 
biện pháp tạm giam. 
Thứ tư, quy định cụ thể hơn nữa các thủ tục 
áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam nhằm bảo 
vệ quyền con người. Kinh nghiệm của Cộng hòa 
liên bang Đức, Nhật Bản đều có quy định rõ ràng 
về cách thức thi hành các thủ tục tạm giam [20]. 
Trong đó có thể tham khảo quy định của 
BLTTHS Cộng hòa liên bang Đức về việc ngoài 
công bố nội dung, căn cứ của lệnh bắt tạm giam 
còn phải gửi kèm một văn bản (không chỉ thông 
báo, giải thích bằng lời nói) nêu rõ các quyền và 
nghĩa vụ của người bị bắt giam. Hoặc BLTTHS 
Nhật Bản cũng quy định, trước khi áp dụng biện 
pháp tạm giam phải thông báo cho bị can, bị cáo 
biết về sự việc họ bị tình nghi và nghe bị cáo 
trình bày về sự việc bị tình nghi đó trước khi thi 
hành quyết định tạm giam trừ trường hợp bị can, 
bị cáo bỏ trốn thì không phải thực hiện thủ tục 
này. 
Tóm lại, trên cơ sở phân tích các nội dung 
của biện pháp ngăn chặn tạm giam dưới góc nhìn 
của phương pháp tiếp cận quyền, tham khảo, 
đánh giá BLTTHS và BLTTHS một số nước cho 
thấy, về cơ bản, BLTTHS Việt Nam năm 2015 
đã đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 về 
tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Tuy 
nhiên, trước yêu cầu đổi mới của đất nước, việc 
tiếp tục nghiên cứu, đánh giá chuẩn mực quốc tế 
về biện pháp này, tổng kết thực tiễn và hoàn 
thiện cơ chế thực thi thực tiễn qua đó tiếp tục đề 
xuất, kiến nghị hoàn thiện BLTTHS năm 2015 
trên cơ sở phương pháp tiếp cận quyền vẫn là 
H.T. Phi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 70-81 
81 
nhiệm vụ quan trọng và là yêu cầu đối với tất cả 
các luật gia, luật sư và các nhà khoa học trong 
lĩnh vực tư pháp hình sự của đất nước./. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Vũ Công Giao, Ngô Minh Hương, Tiếp cận dựa trên 
quyền con người - Lý luận và thực tiễn (Sách chuyên 
khảo), NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2016. 
[2] Nguyễn Duy Sơn, Trần Thị Hòe, Tiếp cận dựa trên 
quyền con người trong hoạch định và thực thi chính 
sách ở Việt Nam, nguồn: 
ly-luan/item/595-tiep-can-dua-tren-quyen-con-
nguoi-trong-hoach-dinh-va-thuc-thi-chinh-sach-o-
viet-nam.html. 
[3] Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc tại Việt Nam: 
tails/115-a-human-rights-based-approach- 
toolkit.html?Itemid=266. 
[4] APT, Detention Monitoring Tool Factsheet Pre-trial 
detention Addressing risk factors to prevent torture 
and ill-treatment, Link: 
 https://apt.ch/en/resources/detention-monitoring-
tool-addressing-risk-factors-to-prevent-torture-and-
ill-treatment/ (Truy cập lần cuối: 18/07/2019). 
[5] Trần Quang Tiệp, Về tự do các nhân và biện pháp 
cưỡng chế tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, 
Hà Nội, 2005. 
[6] Gudmundur Alfredsson & Asjorn Eide (Chủ biên), 
The Universal Declaration of Human Rights: A 
Common Standard of Achivement (Tuyên ngôn Quốc 
tế Nhân quyền, 1948: Mục tiêu chung của nhân loại), 
Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng 
(Chủ biên bản dịch), NXB. Thanh niên, Hà Nội, 2017 
[7] Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội, Giới thiệu Công ước về 
các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1966), Nxb. 
Hồng Đức, Hà Nội, 2012. 
[8] Bùi Kiên Điện, “Vấn đề cưỡng chế tố tụng hình sự và 
nguyên tắc nhân đạo”, Tạp chí Luật học, Số 1, 2010. 
[9] Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về 
hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên năm 
1985 (Các quy tắc Bắc Kinh) theo Nghị quyết 40/33 
ngày 29/11/1985 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc. 
[10] Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng, 
Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, 
Nxb. Chính trị quốc gia, 2015, tr.164. 
[11] Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người 
bị giam hay tù dưới bất kì hình thức nào của Liên Hợp 
Quốc do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 
9/12/1988 theo Nghị quyết số 43/173. 
[12] Xuân Ân, Còn một số vi phạm trong các trại giam, 
tạm giữ, Báo Tiền phong (điện tử): 
https://www.msn.com/vi-
vn/news/other/c%C3%B2n-m%E1%BB%99t-
s%E1%BB%91-vi-ph%E1%BA%A1m-trong-
c%C3%A1c-tr%E1%BA%A1i-giam-
t%E1%BA%A1m-gi%E1%BB%AF/ar-AAEfrek 
(Truy cập lần cuối: 05/08/2019). 
[13] Trần Văn Độ, Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố 
tụng hình sự về biện pháp tạm giam, nguồn: 
(Truy cập lần cuối: 12/10/2017). 
[14] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 
2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp 
đến năm 2020. 
[15] Lê Minh Tuấn, “Hoàn thiện một số quy định của 
BLTTHS về tạm giam nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách 
tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, Số 9, 2008. 
[16] Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao - Cục Thống kê. 
[17] Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao - Vụ kiểm sát tạm 
giữ, tạm giam, thi hành án hình sự (2010), Báo cáo 
tổng kết công tác kiểm sát việc tạm giữ tạm giam, 
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù từ các 
năm 2005 đến 2009, Hà Nội. 
[18] Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao - Vụ kiểm sát tạm 
giữ, tạm giam, thi hành án hình sự (2010), Báo cáo 
tổng kết công tác kiểm sát việc tạm giữ tạm giam, 
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù từ các 
năm 2010 đến 2014, Hà Nội. 
[19] Nguyễn Tiến Tài, Để tránh chuyện tạm giam vô thời 
hạn, nguồn: 
cuu-Trao-doi/76/325/De-tranh-chuyen-tam-giam-vo-
thoi-han.aspx (Truy cập lần cuối: 05/08/2019). 
[20] Webside: https://danluat.thuvienphapluat.vn/chia-se-
bo-luat-to-tung-hinh-su-cac-nuoc-166373.aspx (Truy 
cập lần cuối: 05/08/2019). 

File đính kèm:

  • pdfbien_phap_ngan_chan_tam_giam_trong_to_tung_hinh_su_duoi_goc.pdf