Bảo đảm quyền được hưởng giáo dục cơ bản trong pháp luật Việt Nam
Quyền được hưởng giáo dục cơ bản
– quyền con người
Trước hết, cần phải hiểu “Nhu cầu học
tập cơ bản là những kỹ năng học tập cần
thiết như (biết chữ, biết diễn đạt bằng lời
nói, biết đếm số, và giải quyết vấn đề) và
những nội dung học tập cơ bản (như kiến
thức, kỹ năng, giá trị và thái độ) cần thiết
của con người để có thể sống, phát triển
đầy đủ năng lực của mình, sống và làm việc
có nhân phẩm, tham gia đầy đủ quá trình
phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống,
đưa ra quyết định và tiếp tục học tập” [Điều
1, UDHR]. Do vậy, quyền được hưởng giáo
dục cơ bản là một quyền con người, đồng
thời là điều kiện không thể thiếu để thực
hiện những quyền con người khác.
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
năm 1948 khẳng định: “Mọi người đều có
quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải
miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học và trung
học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải là bắt
buộc. Giáo dục kỹ thuật dạy nghề phải đến
được với mọi người và giáo dục đại học
hay cao hơn phải theo nguyên tắc công
bằng cho bất cứ ai có khả năng” [Điều 26].
Căn cứ vào quy định trên có thể thấy,
quyền được hưởng giáo dục cơ bản gắn
liền với quyền được phổ cập giáo dục của
công dân.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo đảm quyền được hưởng giáo dục cơ bản trong pháp luật Việt Nam
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017 116 Bảo đảm quyền được hưởng giáo dục cơ bản trong pháp luật Việt Nam Ensuring basic educational rights according to Vietnamese laws ThS. Nguyễn Vân Trang, Trường Đại học Sài Gòn Nguyen Van Trang, M.A., Saigon University Tóm tắt Quyền được hưởng giáo dục cơ bản là một quyền con người. Bài viết trình bày những quy định của pháp luật Việt Nam trong việc bảo đảm quyền được hưởng giáo dục cơ bản của người dân, phân tích và đánh giá thực trạng thi hành pháp luật để từ đó đưa ra một số kiến nghị về mặt pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền này. Từ khóa: an sinh xã hội, quyền con người, giáo dục, pháp luật. Abstract Human rights include the right to basic education. This article presents the provisions of Vietnamese laws in ensuring the right to basic education, analyzing and evaluating the current situation of law enforcement, thus making recommendations on the legal aspects of the law in order to improve the efficiency of ensuring this right. Keywords: social security, human rights, education, laws. 1. Quyền được hưởng giáo dục cơ bản – quyền con người Trước hết, cần phải hiểu “Nhu cầu học tập cơ bản là những kỹ năng học tập cần thiết như (biết chữ, biết diễn đạt bằng lời nói, biết đếm số, và giải quyết vấn đề) và những nội dung học tập cơ bản (như kiến thức, kỹ năng, giá trị và thái độ) cần thiết của con người để có thể sống, phát triển đầy đủ năng lực của mình, sống và làm việc có nhân phẩm, tham gia đầy đủ quá trình phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống, đưa ra quyết định và tiếp tục học tập” [Điều 1, UDHR]. Do vậy, quyền được hưởng giáo dục cơ bản là một quyền con người, đồng thời là điều kiện không thể thiếu để thực hiện những quyền con người khác. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 khẳng định: “Mọi người đều có quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải là bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật dạy nghề phải đến được với mọi người và giáo dục đại học hay cao hơn phải theo nguyên tắc công bằng cho bất cứ ai có khả năng” [Điều 26]. Căn cứ vào quy định trên có thể thấy, quyền được hưởng giáo dục cơ bản gắn liền với quyền được phổ cập giáo dục của công dân. Nói cách khác, đó là sự bảo đảm NGUYỄN VÂN TRANG 117 tất cả mọi công dân tối thiểu phải đạt trình độ giáo dục ở một bậc đào tạo nhất định. Mặc dù giáo dục tiểu học không đồng nghĩa với giáo dục cơ bản, nhưng có sự gắn kết chặt chẽ giữa hai khái niệm đó. 2. Quy định pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền được hưởng giáo dục cơ bản ở Việt Nam Ngay từ những ngày đầu của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đảng và chính phủ đã xác định rõ giáo dục là quốc sách hàng đầu, là điều kiện cơ bản để phát triển con người, phát triển xã hội. Trong bản Hiến pháp đầu tiên (1946) được Quốc hội thông qua ngày 9/11/1946, quyền được hưởng giáo dục cơ bản được chính thức thừa nhận là quyền của công dân. Điều 15 của bản Hiến pháp ghi rõ: “Nền sơ học1 cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp”. Tiếp nối tinh thần này, các bản Hiến pháp lần lượt ra đời sau đó (1959, 1980, 1992) đã có các quy định cụ thể hơn về quyền được giáo dục tại các Điều 33, Điều 60 và Điều 59. Theo đó, việc đảm bảo quyền được học tập của công dân đã được quy định rõ ràng hơn, từ việc Nhà nước từng bước thực hiện chế độ giáo dục cưỡng bách (Hiến pháp 1959), từng bước thực hiện giáo dục phổ thông bắt buộc (Hiến pháp 1980) tiến đến khẳng định giáo dục tiểu học là bắt buộc và miễn phí. Đặc biệt, quyền được học tập của nhóm đối tượng yếu thế là trẻ em tàn tật, người khuyết tật đã được ghi nhận trong Hiến Pháp 1992, và mới đây nhất là Hiến pháp 2013. Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp, ngày 02/12/1998, Quốc hội ban hành Luật giáo dục 1998, quy định các nội dung liên quan đến hệ thống giáo dục quốc dân, trách nhiệm của nhà trường, nhà giáo, người học cũng như quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục. Trải qua 7 năm thực hiện, năm 2005, Luật giáo dục mới được ban hành, thay thế cho luật giáo dục 1998, và sau đó được sửa đổi bổ sung năm 2009. Trong đó, quyền được hưởng giáo dục cơ bản của công dân được quy định như sau: “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập” [Điều 10]. Học tập bao gồm học văn hóa và học nghề. Giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở đều là bậc giáo dục bắt buộc. Trẻ em, người tàn tật, người nghèo là nhóm đối tượng thường xuyên gặp hạn chế trong việc tiếp cận với giáo dục cơ bản, bởi vậy Nhà nước đã dành nhiều sự quan tâm đến nhóm đối tượng đặc biệt này. Khoản 2, Điều 26 Luật giáo dục ghi rõ: “Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định những trường hợp có thể học trước tuổi đối với học sinh phát triển sớm về trí tuệ; học ở tuổi cao hơn tuổi quy định đối với học sinh ở những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, học sinh người dân tộc thiểu số, học sinh bị tàn tật, khuyết tật, học sinh kém phát triển về thể lực và trí tuệ, học sinh mồ côi không nơi nương tựa, học sinh trong diện hộ đói nghèo theo quy định của Nhà nước, học sinh ở nước ngoài về nước; những trường hợp học sinh học vượt lớp, học lưu ban; việc học tiếng Việt của trẻ em người dân tộc thiểu số trước khi vào học lớp một”. Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp luật khác cũng được ban hành nhằm đảm bảo một cách tối đa quyền được học tập cho mọi công dân. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC HƯỞNG GIÁO DỤC CƠ BẢN TRONG PHÁP LUẬT VI T NAM 118 em số 25/2004/QH11 quy định trẻ em có quyền được học tập bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả học phí. Quyết định số 239/QĐ-TTg, ngày 9/2/2010 khẳng định mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015. Chính sách phổ cập giáo dục tiểu học quy định trẻ em 6 tuổi phải được học lớp 1; học sinh học tại trường, lớp tiểu học công lập không phải đóng học phí. Mặt khác, nhằm tạo cơ hội và điều kiện cho trẻ em trong các hộ gia đình nghèo, trẻ em là người dân tộc thiểu số ở các vùng khó khăn, trẻ em không nơi nương tựa được tiếp cận giáo dục cơ bản, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách miễn, giảm học phí và các chính sách ưu đãi khác, như Quyết định 85/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ tiền ăn, ở cho học sinh bán trú và trường phổ thông dân tộc bán trú; Quyết định 12/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/1/2013 về chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Quyết định 36/2013/QĐ-TTg ngày 18/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ gạo cho học sinh tại các trường ở khu vực có điều kiện kinh tế, xã hôi đặc biệt khó khăn. Luật người khuyết tật số 51/2010/QH12 là một trong những văn bản quan trọng quy định về giáo dục đối với người khuyết tật, là nền tảng giúp cho các cơ quan nhà nước triển khai các chính sách, hoạt động cần thiết để xây dựng nền giáo dục phù hợp đối với nhóm đối tượng này, nhằm đảm bảo cho người khuyết tật có thể được đáp ứng nhu cầu học tập như những người bình thường khác; được hỗ trợ và tạo điều kiện cần thiết để có thể tham gia học tập và hòa nhập cộng đồng, trong đó: Phương thức giáo dục chủ yếu đối với người khuyết tật là giáo dục hòa nhập, tức là, giáo dục chung người khuyết tật và người không khuyết tật trong cơ sở giáo dục [Khoản 4, Điều 2]. Đây được xem là mô hình giáo dục hiệu quả và hoàn thiện nhất đối với người khuyết tật. Việc được học tập tại môi trường bình thường, gần gia đình, bạn bè sẽ giúp trẻ gần gũi với người thân, bạn bè, không còn cảm giác bị tách biệt ra khỏi xã hội, giảm những mặc cảm, tự ti về khiếm khuyết của mình. Tuy nhiên, cũng tùy vào các dạng tật và mức độ khuyết tật mà các học sinh khuyết tật có thể được hưởng quyền giáo dục theo hai phương thức giáo dục chuyên biệt và giáo dục bán hòa nhập. Ngoài ra, để thực hiện Luật Người khuyết tật và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Người khuyết tật, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các chính sách hỗ trợ về giáo dục người khuyết tật (người dạy và người học); đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lí giáo dục và giáo viên có kĩ năng giáo dục trẻ khuyết tật; tăng cường cơ sở vật chất cho học sinh khuyết tật tiếp cận được, trang thiết bị dạy học đặc thù nhằm nhằm đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác giáo dục trẻ khuyết tật. Cũng liên quan đến vấn đề này, xuất phát từ quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và Kế hoạch hành động quốc gia giáo dục cho mọi người giai đoạn 2003-2015 nhằm mục tiêu tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là ở các vùng còn nhiều khó khăn. Ở Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, Ban chấp hành trung ương đã thông qua Nghị quyết 29- NGUYỄN VÂN TRANG 119 NQ/TW với nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo; trong đó nghị quyết đã đề ra mục tiêu cụ thể là hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục trong những năm tiếp theo, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020. Mới đây nhất, nhằm tiếp tục thực hiện các chủ trương, mục tiêu của Nghị quyết 29-NQ/TW đại hội Đảng lần thứ XII cũng đã đề ra các nhiệm vụ: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục và đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục và đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục và đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo.. Có thể nói, những quy định pháp luật và chính sách của Việt Nam về quyền được hưởng giáo dục cơ bản khá đầy đủ và hợp lý, phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia và ký kết. Điều đó cho thấy Chính phủ Việt Nam đã và đang giành rất nhiều sự quan tâm đến việc đảm bảo quyền giáo dục cơ bản của mọi công dân. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó cần có sự thống nhất trong nhận thức và hành động của toàn Đảng và toàn dân. Thực tế khảo sát cho thấy việc thực thi các chính sách, pháp luật nói trên còn gặp nhiều sai phạm. Nói cách khác, nhiều quy định của pháp luật về quyền giáo dục cơ bản chưa thể đi vào thực tế do thiếu vắng những cơ chế bảo đảm hiệu quả. 3. Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền giáo dục cơ bản ở Việt Nam Sau một thời gian thực hiện chính sách đảm bảo giáo dục tối thiểu, mạng lưới giáo dục ở Việt Nam đã được tăng cường. Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000, phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010. Trong giai đoạn 2001-2010, tỷ lệ nhập học tinh tăng nhanh, trong đó mẫu giáo 5 tuổi tăng từ 72% lên 98%, tiểu học từ 94% lên 97%, trung học cơ sở từ 70% lên 85%, trung học phổ thông từ 33% lên 50% [1, tr.10]. Năm 2012, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học mẫu giáo 5 tuổi đạt 98,6%, tiểu học đạt 97,4%, trung học cơ sở trên 85,5%, trung học phổ thông đạt 54,4%; tỷ lệ trẻ khuyết tật đi học đạt 58,4%; tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân đạt 56,1 người; tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 tuổi trở lên đạt 98,25% [3, tr.97] Công bằng xã hội trong giáo dục đã được cải thiện, đặc biệt tăng cơ hội học tập cho trẻ em gái, trẻ em dân tộc thiểu số, con em gia đình nghèo và trẻ em khuyết tật. Giáo dục ở vùng đồng bảo dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có tiến bộ rõ rệt. Đến năm học 2012-2013, có 16,32% học sinh dân tộc thiểu số trong tổng số trẻ em cả nước đi học, nghĩa là tỷ lệ này lớn hơn tỷ lệ người dân tộc thiểu số trên tổng dân số cả nước (13,8%) [1, tr.15]. Có thể thấy, đây là một kết quả đáng ghi nhận của Chính phủ Việt Nam trong nỗ lực đảm bảo quyền được giáo dục cơ bản cho mọi công dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu kể trên vẫn còn tồn tại một số vấn đề sau: Một là, Trong thời gian vừa qua tỷ lệ tuyển sinh vào tiểu học (lớp 1) trong cả nước nhìn chung lớn hơn 100%, năm học BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC HƯỞNG GIÁO DỤC CƠ BẢN TRONG PHÁP LUẬT VI T NAM 120 2012-2013 đạt tỉ lệ 103,88% [1, tr.19], điều đó cho thấy còn một số trẻ em 7 tuổi, 8 tuổi, thậm chí cả trẻ em 9 tuổi, 10 tuổi, mới nhập học lớp 1. Nguyên nhân của tình trạng này là do một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc cho con em đi học đúng độ tuổi, một số trẻ em sức khoẻ yếu, phụ huynh lo ngại không cho con em đi học lúc 6 tuổi, ở một số vùng núi trẻ em không có giấy khai sinh, việc xác định tuổi gặp rất nhiều khó khăn, bên cạnh đó có cả sự thiếu quan tâm của lãnh đạo một số địa phương. Hai là, tỷ lệ trẻ em nghèo, người khuyết tật không đi học, hoặc bỏ học còn ở mức cao. Nguyên nhân đầu tiên có thể kể đến là do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nghèo đói khiến người dân không quan tâm nhiều đến học tập. Mặc dù Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ học phí, miễn giảm học phí đối với nhóm đối tượng này, nhưng nhìn chung mức hỗ trợ còn thấp. Bên cạnh đó, theo quy định của luật, học sinh cấp tiểu học ở các trường công lập không phải nộp học phí. Tuy nhiên, có những chi phí khác như chi phí đi lại, đồng phục, tài liệu học tập do nhà trường và địa phương đề ra thì phụ huynh và học sinh vẫn phải chi trả. Bởi vậy, cho dù đã được hỗ trợ, nhiều trẻ em, người nghèo vẫn phải bỏ học để đi làm, nhằm giảm bớt gánh nặng kinh tế cho bản thân và gia đình. Ngoài nguyên nhân nghèo đói, khó khăn về khoảng cách từ nơi ở đến trường học, cơ sở vật chất thiếu thốn, xuống cấp nghiêm trọng; sách, giáo trình không phù hợp với năng lực của học sinh, bất đồng ngôn ngữ trong dạy và học, thiếu giáo viên đặc biệt là giáo viên ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn... cũng là những nguyên nhân khiến cho học sinh chán học, dẫn đến bỏ học. Ba là, mặc dù mục tiêu phổ cập giáo dục về cơ bản đã đạt được, nhưng chất lượng giáo dục chưa cao, không đồng đều giữa các khu vực, các địa phương, và nhìn chung là chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu xã hội. Tỷ lệ trẻ đến lớp đạt mức cao nhất ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng; thấp nhất ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và ở các tỉnh Tây Nguyên [1, tr.53]. Hiện tượng học sinh đã tốt nghiệp trung học cơ sở nhưng trình độ học vấn chỉ tương đương với học sinh tiểu học khá phổ biến, nhất là ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa. Chất lượng đào tạo thấp, dẫn đến chất lượng học sinh yếu kém, sau khi tốt nghiệp không vận dụng được các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống lao động. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là trình độ chuyên môn của giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu, chương trình học không phù hợp. Trong những năm gần đây, chương trình, sách giáo khoa được thay đổi liên tục nhằm đáp ứng yêu cầu giáo dục hiện đại. Tuy nhiên, hiệu quả của nó không được như mong muốn. Cả người dạy và người học đều gặp nhiều khó khăn trước những đổi thay ấy. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục. Bên cạnh đó, việc thực hiện xã hội hóa giáo dục một cách máy móc, khiên cưỡng, thiếu định hướng đã khiến cho giáo dục ngày càng bị thương mại hóa, xa dần các mục tiêu giáo dục được luật định trong Luật giáo dục 2013. Nhiều cơ sở giáo dục đã đặt lợi nhuận lên trên chất lượng, biến giáo dục thành một ngành kinh doanh. Tình trạng bất công, lệch lạc trong giáo dục, vì vậy ngày càng có xu hướng phổ biến. Quyền được giáo dục cơ bản chưa thực sự được đảm bảo. Bốn là, hiện tượng trục lợi ngân sách nhà nước dành cho giáo dục còn phổ biến. Trong lĩnh vực này, tham nhũng chủ yếu xảy ra ở các đơn vị được thụ hưởng ngân NGUYỄN VÂN TRANG 121 sách nhà nước và được giao quản lý các tài sản của nhà nước (cơ quan quản lý giáo dục các cấp, trường học, lãnh đạo trường học). Hiện tượng tham nhũng phổ biến chủ yếu là vi phạm các nguyên tắc quản lý tài chính, ngân sách để trục lợi, như: chi tiêu tiền của trường học không đúng mục đích, trái nguyên tắc; thu tiền không nhập quỹ, không vào sổ sách; lợi dụng sơ hở trong chính sách và sự quản lý lỏng lẻo của Nhà nước, làm khống chứng từ để chia nhau; khai tăng chi phí xây dựng trường học, giá mua sách giáo khoa, mua sắm các thiết bị, vật tư trường học, mua đắt hơn giá thị trường, hai bên thông đồng với nhau để ghi giá vào hóa đơn cao hơn giá thanh toán thực tế hoặc người mua hàng chiếm đoạt tiền hoa hồng... Xem giáo dục là quốc sách hàng đầu để xây dựng và phát triển đất nước, mỗi năm, Việt Nam đã đầu tư một nguồn ngân sách đáng kể cho giáo dục. Số liệu từ Vụ Tài chính hành chính sự nghiệp (Bộ Tài chính) cho biết, tổng nguồn ngân sách nhà nước dành cho lĩnh vực giáo dục đào tạo năm 2015 là 224.826 tỷ đồng, chiếm khoảng 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên với việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước còn nhiều lỗ hổng như đề cập ở trên thì hiệu quả mang lại là chưa tương xứng. Mục tiêu chi ngân sách không đạt được, công bằng xã hội nói chung và công bằng, bình đẳng trong tiếp cận giáo dục nói riêng không được đảm bảo [5] bởi tham nhũng tác động đặc biệt tới người nghèo và nhóm người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Những nhóm người này phụ thuộc nhiều vào dịch vụ công và không có đủ điều kiện để chi trả cho các khoản thu ngoài quy định để tiếp cận giáo dục. Nguyên nhân của tình trạng trục lợi ngân sách nhà nước trong lĩnh vực giáo dục có nhiều, nhưng trước hết là do hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ, quy định chế tài xử lý hành vi tham nhũng chưa đủ mạnh, quá trình thực hiện quản lý vẫn còn lỗ hổng, sơ hở, lỏng lẻo. Việc phân cấp mạnh cho địa phương, việc tăng quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục là xu hướng tốt. Song mặt trái của nó cũng có nhiều liên quan đến công tác phòng chống tham nhũng, bởi tổ chức bộ máy, đội ngũ làm công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nhìn chung còn mỏng, chưa có nhiều kinh nghiệm, dẫn tới việc bỏ sót các vụ vi phạm trong quản lý và sử dụng ngân sách cho giáo dục. Trách nhiệm của chủ thể chưa được xem xét theo luật định. Hậu quả của nó là tình trạng yếu kém trong điều hành quản lý giáo dục ở các cấp kéo dài, ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực thi Quyền được giáo dục cơ bản của công dân. 4. Một số kiến nghị Thứ nhất, cần tăng cường phối hợp liên ngành giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các bộ, ngành khác về công tác đảm bảo quyền được hưởng giáo dục cơ bản một cách thực chất, làm rõ hơn vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Y tế, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam Thứ hai, cần chú trọng đến tính hợp lý trong việc quy định về phân cấp quản lý trong lĩnh vực giáo dục. Bộ Giáo dục & Đào tạo cần tiếp tục phân cấp, phân quyền, phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp trong quá trình giải quyết các công việc có liên quan. Về phía các sở giáo dục, phòng giáo dục và các trường, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm trong công tác tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC HƯỞNG GIÁO DỤC CƠ BẢN TRONG PHÁP LUẬT VI T NAM 122 hoạt động giáo dục tại địa phương và cơ sở giáo dục do mình phụ trách. Thứ ba, cần quy định rõ ràng trong Luật giáo dục về vấn đề chịu trách nhiệm khi có sai phạm xảy ra. Có thể thấy rõ, đối với những hạn chế trong việc bảo đảm quyền được hưởng giáo dục được đề cập đến ở trên, nguyên nhân chung cơ bản và quan trọng nhất đó là không có cá nhân hay tổ chức có thẩm quyền nào đứng ra chịu trách nhiệm trước những hành vi gây ảnh hưởng hay xâm phạm đến quyền được giáo dục. Nói cách khác, trách nhiệm của chủ thể chưa được quy định rõ. Nếu bổ sung được quy định này vào Luật giáo dục thì việc thực hiện các biện pháp bảo đảm quyền giáo dục sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Thứ tư, cần xây dựng chính sách, cơ chế hỗ trợ của nhà nước theo hình thức hợp tác công - tư kết hợp để phát triển giáo dục ngoài công lập. Nói cách khác, là hỗ trợ phát triển giáo dục ở các trường mầm non, trường tiểu học tư thục nhằm giảm thiệt thòi cho trẻ em tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, nơi đông dân cư, vùng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và vùng đồng bào dân tộc. Thứ năm, cần bổ sung các quy định tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động thực thi pháp luật về bảo đảm quyền được hưởng giáo dục cơ bản trong hệ thống giáo dục quốc dân, đồng thời phải có chế tài và tăng mức phạt vi phạm để nâng cao tính răn đe. Bên cạnh đó, phải đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và nâng cáo tính trách nhiệm cho đội ngũ thanh tra, kiểm tra trong ngành giáo dục. Chú thích: 1 Theo kiến trúc của nền giáo dục phổ thông Pháp – Việt, hệ thống giáo dục phổ thông có 3 bậc với học trình là 13 năm, trong đó Bậc Tiểu Học có 6 năm: - Lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin) - Lớp Dự Bị (Cours Préparatoire) - Lớp Sơ Đẳng (Cours Élémentaire) - Lớp Nhì năm thứ nhất (Cours Moyen 1ère année) - Lớp Nhì năm thứ hai (Cours Moyen 2è année) (9) - Lớp Nhất (Cours Supérieur) Ba lớp đầu còn được gọi là bậc sơ học. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào Tạo, Báo cáo quốc gia giáo dục cho mọi người 2015 của Việt Nam, Hà Nội, nguồn: /002327/232770vie.pdf. 2. Unicef (1999), Bộ Tài liệu Tuyên truyền và Giáo dục cơ bản, phần 1. 3. Viện Khoa học Lao động và xã hội & Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Cộng Hòa Liên Bang Đức (2013), Phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội. Ngày nhận bài: 07/7/2017 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20/8/2017
File đính kèm:
- bao_dam_quyen_duoc_huong_giao_duc_co_ban_trong_phap_luat_vie.pdf