Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam hiện nay - Một số khía cạnh lí luận, pháp lí, thực tiễn

Quyền con người là sự kết tinh những giá

trị cao quý nhất được thừa nhận chung bởi nền

văn minh nhân loại, thể hiện ước mơ, khát vọng

cháy bỏng và sự quyết tâm giành, giữ lấy của

con người xuyên suốt chiều dài lịch sử đấu

tranh. Do đó, quyền con người luôn thu hút

được sự quan tâm rộng rãi của các nhà nước,

thiết chế, tổ chức và cộng đồng, ngày càng có vị

trí nổi bật tại các diễn đàn quốc tế.

Quyền con người thường được chia thành

hai nhóm chính: nhóm quyền dân sự, chính trị

và nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Việc

Liên hợp quốc thông qua hai công ước nhân

quyền chủ chốt vào năm 1966 là Công ước về

các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công

ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng

là kết quả của quá trình vận động và thúc đẩy

sự hình thành hai nhóm quyền này [1]. Cách

phân loại các quyền con người thành hai nhóm

quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn

hóa xuất phát từ nhận thức cho rằng có sự khác

nhau về đặc điểm và những yêu cầu trong bảo

đảm hai nhóm quyền này [2].

pdf 8 trang kimcuc 5440
Bạn đang xem tài liệu "Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam hiện nay - Một số khía cạnh lí luận, pháp lí, thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam hiện nay - Một số khía cạnh lí luận, pháp lí, thực tiễn

Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam hiện nay - Một số khía cạnh lí luận, pháp lí, thực tiễn
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 70-77 
70 
Review Article 
Ensuring Civil and Political Rights in Vietnam 
Today - Some Theoretical, Legal, Practical Aspects 
Nguyen Thi Thanh Nga* 
Political Academy of the People's Public Security 
No 29, Le Van Hien street, Duc Thang ward, Bac Tu Liem district, Hanoi, Vietnam 
Received 20 November 2019 
Revised 12 December 2019; Accepted 20 December 2019 
Abstract: The article focuses on generalizing theoretical issues on civil and political rights, 
assurance of civil and political rights; ensuring civil and political rights in Vietnam through 
analyzing the provisions of the Constitution and laws and practices to ensure civil and political 
rights. On that basis, a solution is proposed to make a contribution to ensuring to make a 
contribution to ensuring civil and political rights in Vietnam in the near future. 
Keywords: Ensure, civil and political rights, solutions. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: thanhnga210288@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4258 
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 70-77 
71 
Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam 
hiện nay - một số khía cạnh lí luận, pháp lí, thực tiễn 
Nguyễn Thị Thanh Nga* 
Học viện Chính trị Công an Nhân dân 
Số 29, đường Lê Văn Hiến, phường Đức Thắng, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 20 tháng 11 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 12 tháng 12 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày20 tháng 12 năm 2019 
Tóm tắt: Bài viết tập trung khái quát những vấn đề lý luận về quyền dân sự, chính trị, bảo đảm 
quyền dân sự, chính trị; bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam thông qua những phân 
tích các quy định của Hiến pháp và pháp luật, thực tiễn bảo đảm quyền dân sự, chính trị. Trên sơ 
sở đó bài viết đưa ra một số giải pháp góp phần bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam 
trong thời gian tới. 
Từ khóa: Bảo đảm, quyền dân sự, chính trị, giải pháp. 
1. Khát quát về bảo đảm các quyền dân sự, 
chính trị * 
Quyền con người là sự kết tinh những giá 
trị cao quý nhất được thừa nhận chung bởi nền 
văn minh nhân loại, thể hiện ước mơ, khát vọng 
cháy bỏng và sự quyết tâm giành, giữ lấy của 
con người xuyên suốt chiều dài lịch sử đấu 
tranh. Do đó, quyền con người luôn thu hút 
được sự quan tâm rộng rãi của các nhà nước, 
thiết chế, tổ chức và cộng đồng, ngày càng có vị 
trí nổi bật tại các diễn đàn quốc tế. 
________ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: thanhnga210288@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4258 
Quyền con người thường được chia thành 
hai nhóm chính: nhóm quyền dân sự, chính trị 
và nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Việc 
Liên hợp quốc thông qua hai công ước nhân 
quyền chủ chốt vào năm 1966 là Công ước về 
các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công 
ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng 
là kết quả của quá trình vận động và thúc đẩy 
sự hình thành hai nhóm quyền này [1]. Cách 
phân loại các quyền con người thành hai nhóm 
quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn 
hóa xuất phát từ nhận thức cho rằng có sự khác 
nhau về đặc điểm và những yêu cầu trong bảo 
đảm hai nhóm quyền này [2]. Tuy nhiên, cũng 
có nhiều nhà nghiên cứu chia quyền con người 
thành năm nhóm nhỏ hơn, bao gồm: (1) các 
quyền dân sự; (2) các quyền chính trị; (3) các 
N.T.T. Nga / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 70-77 
72 
quyền kinh tế; (4) các quyền văn hóa; (5) các 
quyền xã hội. 
Mặc dù có nhiều cách phân loại về quyền 
con người, nhưng việc phân chia các quyền 
thành các nhóm nhỏ hơn cũng chỉ mang tính 
tương đối. Trên thực tế, có quyền vừa có thể 
sếp vào nhóm quyền dân sự lại vừa có thể sếp 
vào nhóm quyền chính trị. 
Các quyền dân sự, chính trị có vị trí đặc biệt 
quan trọng, là một bộ phận cơ bản, thiết yếu 
trong tổng thể quyền con người. 
Trong ICCPR, nội dung của các quyền dân 
sự, chính trị được quy định từ Điều 6 đến Điều 
27. Theo đó, các quyền dân sự là những quyền 
cá nhân, gắn chặt với nhân thân của mỗi người, 
chỉ cá nhân mới có thể sử dụng độc lập và 
không thể chuyển giao cho người khác [3], bao 
gồm: quyền sống, quyền tự do đi lại, cư trú, 
quyền không bị tra tấn, quyền kết hôn, ly 
hônĐặc trưng của nhóm quyền dân sự mang 
tính thụ động nghĩa là không cần có sự can 
thiệp từ phía nhà nước, cá nhân cũng có thể tự 
mình thực hiện được. 
 Trên thực tế, các quyền dân sự ra đời sớm 
hơn rất nhiều so với các quyền chính trị. Quyền 
chính trị là những quyền liên quan đến những 
giá trị mà mỗi người được hưởng. Để thực hiện 
các quyền này thông thường cá nhân phải tham 
gia cùng với những người khác, như: quyền tự 
do lập hội, quyền hội họp hòa bình, quyền bầu 
cử, ứng cử, quyền tiếp cận thông tin, quyền 
tham gia quản lý nhà nước và xã hội Ngày 
nay, nội hàm khái niệm “quyền chính trị” ngày 
càng được mở rộng, bao gồm cả việc tham gia 
cùng nhà nước quyết định các vấn đề chính trị 
trọng đại của đất nước, như ban hành các 
chính sách có liên quan tới quyền của người 
dân; quyết định về thể chế chính trị, hình thức 
chính phủ, sửa đổi hiến pháp... [3]. So với 
việc thực hiện các quyền dân sự, mức độ thực 
hiện các quyền chính trị bao giờ cũng kèm 
theo những giới hạn nhất định, điều này xuất 
phát từ lý do bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự 
công cộng, sức khỏe, đạo đức xã hội, quyền 
và tự do của người khác. 
Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị luôn 
trở thành mối quan tâm chung của toàn cộng 
đồng quốc tế, trở thành những giá trị cơ bản mà 
mỗi nhà nước hướng tới [4] nhằm thu hút đông 
đảo công dân tham gia sâu vào đời sống chính 
trị của mỗi nước, từ đó góp phần thúc đẩy dân 
chủ và tiến bộ trên toàn thế giới. 
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “Bảo đảm là 
làm cho chắc chắn, thực hiện được, giữ gìn 
được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết, bảo 
đảm là cam đoan chịu trách nhiệm về việc gì 
đó” [5]. Theo quan điểm của GS. Hoàng Phê, tác 
giả cho rằng “bảo đảm là làm cho chắc chắn thực 
hiện được, hay nói chắc chắn và chịu trách nhiệm 
về lời nói của mình, nhận chịu trách nhiệm làm 
tốt” [6]. 
Cách hiểu này khá tương đồng với nguyên 
tắc bảo đảm pháp luật ở Việt Nam và trong 
Luật nhân quyền quốc tế. 
Bảo đảm và bảo vệ là hai khái niệm gần 
gũi, nhưng không đồng nhất. Bảo đảm là tạo ra 
những điều kiện, tiền đề để chủ thể quyền (mọi 
người hoặc công dân) chắc chắn thực hiện các 
quyền, nghĩa vụ đã được pháp luật ghi nhận 
trên thực tế. Bảo đảm bao gồm: bảo đảm chung 
và bảo đảm riêng. 
Bảo đảm chung là những điều kiện, tiền đề 
về kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, xã hội 
để nhà nước và công dân thực hiện các quyền 
cũng như nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. 
Bảo đảm riêng là các biện pháp pháp lý cần 
thiết để nhà nước và công dân thực hiện các 
quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của 
pháp luật [7]. 
Về mục đích, bảo đảm nhằm làm cho công 
dân thực hiện được quyền, thực hiện tốt hơn, 
chất lượng hơn trên thực tế. Trong khi bảo vệ là 
sử dụng các biện pháp pháp lý nhằm ngăn 
chặn, chống lại mọi sự xâm phạm quyền từ 
phía các cơ quan công quyền hay các chủ thể 
khác có thẩm quyền, đồng thời có chế tài xử 
lý mỗi khi xảy ra vi phạm nhằm khôi phục lại 
quyền đã bị xâm phạm, giữ cho quyền luôn 
được nguyên vẹn. 
Nhận thức phổ biến của cộng đồng quốc tế 
cho rằng việc hiện thực hóa các quyền dân sự, 
chính trị là mang tính tức thời. Bởi vì trên thực 
tế việc bảo đảm các quyền này không đòi hỏi 
phải tiêu tốn nhiều nguồn lực vật chất [8], mà 
N.T.T. Nga / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 70-77 
73 
cơ bản là phụ thuộc vào ý chí chính trị [8], do 
đó, bất cứ quốc gia nào, giàu hay nghèo, đều có 
thể tiến hành được. 
Bảo đảm quyền dân sự, chính trị có thể hiểu 
là việc thực hiện trách nhiệm của nhà nước, xã 
hội nhằm tạo ra các tiền đề, điều kiện cần thiết 
để mọi người thực hiện được các quyền dân sự, 
chính trị của mình đã được pháp luật ghi nhận 
trên thực tế. 
Như vậy, bảo đảm quyền dân sự, chính trị 
bao hàm việc bảo đảm từ việc tiến hành xây 
dựng, ban hành chính sách, pháp luật của nhà 
nước đến cả việc bảo đảm thực hiện chính sách, 
pháp luật đó trên thực tế. Trong các bảo đảm thì 
bảo đảm pháp lý có ý nghĩa quan trọng nhất, 
góp phần bảo đảm các quyền dân sự, chính trị 
cũng như các quyền khác trên thực tế. Các chủ 
thể có trách nhiệm bảo đảm quyền dân sự, 
chính trị, văn hóa trước hết và chủ yếu là nhà 
nước và các tổ chức chính trị - xã hội, thực hiện 
các biện pháp về thể chế lập pháp, hành pháp, 
tư pháp và về quản lý chính trị, kinh tế, xã hội, 
văn hóa để hiện thực hóa các nguyên tắc, tiêu 
chuẩn về quyền con người trong hoạt động của 
nhà nước và các hoạt động của các tổ chức 
chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, đặc biệt 
trong các chương trình phát triển kinh tế - xã 
hội, nhằm công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo 
đảm các quyền dân sự, chính trị. 
Việc bảo đảm tốt các quyền dân sự, chính 
trị nói riêng, quyền con người nói chung sẽ giúp 
giảm thiểu, ngăn ngừa những mâu thuẫn trong 
xã hội, đồng thời củng cố tình đoàn kết, phát 
huy dân chủ và thúc đẩy sự phát triển về mọi 
mặt của đất nước. 
2. Thực trạng bảo đảm các quyền dân sự, 
chính trị ở Việt Nam hiện nay 
Việt Nam nhất quán quan điểm: “bảo đảm 
và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công 
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con 
người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân 
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn 
minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, 
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” 
[9]. Việc nâng cao chất lượng thụ hưởng các 
quyền con người nói chung, quyền dân sự, 
chính trị nói riêng là trách nhiệm của Đảng, 
Nhà nước và của của toàn xã hội, thể hiện bản 
chất của nhà nước ta, nhà nước của Nhân dân, 
do Nhân dân và vì Nhân dân. Suốt những năm 
qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi con 
người vừa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp 
phát triển đất nước, vừa là trung tâm của các 
chính sách kinh tế - xã hội. Mọi chủ trương, 
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của 
Nhà nước đều phấn đấu phục vụ cho con người, 
tất cả vì con người. 
Để tránh tiềm ẩn nguy cơ quyền con người 
nói chung và quyền dân sự, chính trị nói riêng 
có thể bị thu hẹp, hạn chế bởi các văn bản dưới 
luật như: nghị định, thông tư Tại Khoản 2, 
Điều 14, Hiến pháp năm 2013 quy định: 
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể 
bị hạn chế theo quy định của luật trong trường 
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc 
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức 
khỏe của cộng đồng”. Như vậy, việc hạn chế 
quyền con người, quyền công dân chỉ thuộc về 
Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao 
nhất, không thuộc về bất kỳ một chủ thể nào 
khác và chỉ “trong trường hợp cần thiết vì lý do 
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn 
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng 
đồng”, không trong bất kỳ trường hợp nào khác. 
Để bảo đảm quyền con người, quyền công 
dân, trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, cùng với 
việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải 
cách tư pháp, tinh gọn bộ máy, để bảo đảm các 
quyền dân sự, chính trị ở nước, hàng loạt các 
văn bản luật đã được ban hành, cụ thể: 
Đối với quyền tiếp cận thông tin, tự do 
ngôn luận, báo chí. Hiện nay, về cơ bản pháp 
luật trong nước đã tương thích với pháp luật 
quốc tế, đầy đủ và đồng bộ, từ Hiến pháp, luật, 
đến nghị định, tiêu biểu là một số văn bản quy 
phạm pháp luật như: Luật Báo chí năm 2016, 
Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Nghị định số 
72/2013/NĐ-CP, ngày 15/7/2013 của Chính 
phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ 
internet và thông tin trên mạng. Ngoài ra, việc 
triển khai thi hành các văn bản quy phạm pháp 
luật cũng được tiến hành một cách nghiêm túc. 
N.T.T. Nga / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 70-77 
74 
Các quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận 
thông tin ở nước ta không những được bảo đảm 
tốt mà còn trở thành một trong những biện pháp 
hữu hiệu, tích cực trong cuộc đấu tranh quyết 
liệt nhằm đẩy lùi nạn quan liêu, tham nhũng và 
các biểu hiện tiêu cực khác trong xã hội. 
Đối với các quyền bầu cử, ứng cử, tham gia 
quản lý nhà nước và xã hội luôn được phát huy. 
Quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia quản lý 
Nhà nước và xã hội của người dân được quy 
định rõ tại các Điều 27, 28, 29, Hiến pháp năm 
2013. Ngoài Hiến pháp năm 2013, các quyền 
trên còn được quy định tại nhiều văn bản quy 
phạm pháp luật khác như: Luật Tiếp công dân 
năm 2013, Luật Khiếu nại năm 2011, Luật bầu 
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân 
dân năm 2015, Luật Tố cáo năm 2018 và các 
văn bản khác có liên quan. Tất cả đã tạo ra 
khung pháp lý khá hoàn chỉnh trong việc bảo 
đảm quyền bầu cử, ứng cử của công dân, tham 
gia quản lý nhà nước và xã hội. Theo đó, việc 
bầu cử ở Việt Nam được tiến hành trên cơ sở 
của các nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực 
tiếp và bỏ phiếu kín. Công dân Việt Nam đủ 
mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai 
mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào 
Quốc hội, Hội đồng nhân dân, không phân biệt 
đối xử dưới bất cứ hình thức nào. Kết quả cuộc 
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII, XIV 
và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm 
kỳ 2007 – 2011, 2011 – 2016, 2016 – 2021 là 
một minh chứng. Theo thống kê của các cơ 
quan chức năng tỷ lệ cử tri đi bầu cử năm 2007 
đạt hơn 99,64%, năm 2011 là 99,51% [10] và 
năm 2016 cao hơn 98,77% [11]. 
Điều này cho thấy người dân luôn có ý thức 
cao về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của 
mình đồng thời cũng phản ánh những cố gắng, 
nỗ lực của các cơ quan chức năng trong việc tạo 
mọi điều kiện để công dân có thể thực hiện 
được quyền của mình. 
Đối với quyền tự do đi lại và tự do cư trú 
của công dân. Nhà nước tạo mọi điều kiện và 
bảo đảm quyền tự do đi lại và tự do cư trú của 
công dân. Hiến pháp Việt Nam đã khẳng định: 
“công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở 
trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước 
ngoài về nước theo quy định của pháp luật. 
Việc đi lại và lựa chọn nơi cư trú do mỗi cá 
nhân quyết định, phù hợp với nhu cầu, khả 
năng, hoàn cảnh của họ”. 
Đối với quyền sống, quyền tự do tín 
ngưỡng, tôn giáo. Đây là một trong số những 
quyền con người, quyền cơ bản của công dân 
luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan 
tâm, không ngừng hoàn thiện chính sách, 
pháp luật. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi 
người có quyền sống. Tính mạng con người 
được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt 
tính mạng trái pháp luật” (Điều 19) và “Mọi 
người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, 
được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, 
nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, 
nhục hình,” (Điều 20). Cùng với đó, Bộ luật 
Hình sự năm 2015 cũng dành riêng chương 
XIV (từ Điều 123 đến Điều 156) quy định hình 
phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức 
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. 
Bên cạnh quyền sống, quyền tự do tín 
ngưỡng tôn giáo cũng là quyền hiến định. Nhà 
nước Việt Nam nhìn nhận tín ngưỡng, tôn giáo 
là một nhu cầu tinh thần chính đáng của con 
người. Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được 
nhiều thành tựu to lớn trong việc bảo đảm 
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người dân. 
Theo thống kê sơ bộ, tính đến năm 2017, cả 
nước có 41 tổ chức tôn giáo thuộc 14 tôn giáo 
khác nhau (với hơn 25 triệu tín đồ, 53 nghìn 
chức sắc, hơn 133 nghìn chức việc, 28 nghìn cơ 
sở thờ tự) được Nhà nước công nhận và cho 
phép hoạt động [12]. Gần đây, ngày 
18/11/2016, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 2 đã 
thông qua Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là cơ 
sở để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đáp 
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt 
Nam xã hội chủ nghĩa đồng thời tạo ra sự đồng 
bộ trong hệ thống pháp luật, thể hiện đúng tinh 
thần Hiến pháp năm 2013 mặt khác giúp Nhà 
nước xác lập các giới hạn của quyền và nghĩa vụ, 
bảo đảm sự công bằng, bình đẳng cho mọi tín đồ. 
Đối với quyền lập hội, biểu tình: Trong lịch 
sử nước ta, quyền biểu tình đã từng được quy 
định tại Sắc lệnh số 31, ngày 13/9/1945 của 
Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ 
N.T.T. Nga / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 70-77 
75 
cộng hòa, còn quyền lập hội được quy định chi 
tiết trong Sắc lệnh số 102/SL/L004, ngày 
20/5/1957 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ 
cộng hòa ban hành Luật quy định quyền lập hội 
và Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, ngày 
21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, 
hoạt động quản lý hội và một số văn bản hướng 
dẫn thi hành khác. Tự do hội họp là một trong 
những nguyên tắc của chế độ dân chủ. Trong 
đó, biểu tình được coi là hình thức tiêu biểu 
nhất của hội họp. Mặc dù quyền biểu tình là 
quyền hiến định nhưng hiện nay ngoài Hiến 
pháp ra nước ta chưa có văn bản nào quy định 
cụ thể trực tiếp hay hướng dẫn để thực hiện 
quyền này. Mỗi khi có biểu tình xảy ra các cơ 
quan chức năng lại sử dụng Nghị định số 
38/2005/NĐ-CP, ngày 18/3/2005 của Chính 
phủ quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự 
công cộng và Thông tư số 09/BCA, ngày 
5/9/2005 hướng dẫn chi tiết Nghị định số 
38/2005/NĐ-CP để giải quyết. Tuy nhiên, trên 
thực tế việc triển khai Nghị định số 
38/2005/NĐ-CP và Thông tư số 09/BCA đã bộc 
lộ nhiều bất cập, vướng mắc gây ra không ít 
khó khăn cho cả người đi biểu tình lẫn cơ quan 
chức năng làm nhiệm vụ giữ vững an ninh quốc 
gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Trước 
những tồn tại trên, Nhà nước ta đã và đang triển 
khai xây dựng Luật Biểu tình và Luật về hội 
theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo 
đảm các quyền cơ bản của công dân được tốt 
hơn. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng việc 
bảo đảm quyền dân sự, chính trị của công dân 
nói chung, quyền lập hội, biểu tình nói riêng 
cũng cần song song hài hòa với lợi ích quốc gia 
và phù hợp với bối cảnh chính trị và văn hóa 
của đất nước. 
Nhìn chung, về cơ bản các quyền dân sự, 
chính trị ở nước ta được bảo đảm thực hiện 
ngày một tốt hơn. Tính đến nay, Việt Nam đã 
trở thành thành viên của 7/9 công ước quốc tế 
chủ chốt về quyền con người, trong đó có Công 
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 
1966 (Việt Nam tham gia ngày 24/9/1982). 
Tuy nhiên, ngoài những kết quả đã đạt 
được, việc bảo đảm quyền dân sự, chính trị của 
công dân nước ta cũng bộc lộ những hạn chế, 
vướng mắc nhất định. Hiện nay, Việt Nam chưa 
tham gia các Nghị định thư bổ sung của Công 
ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị, 
ICCPR 1966. Do đó, công dân Việt Nam chưa 
thể gửi khiếu nại về quyền dân sự, chính trị tới 
các cơ quan nhân quyền Liên hiệp quốc, đồng 
thời việc khiếu nại theo cơ chế bảo vệ và thúc 
đẩy quyền con người trong khu vực ASEAN 
cũng không khả thi khi mà Ủy ban liên chính 
phủ ASEAN về quyền con người (AICHR) chỉ 
là một “cơ quan tư vấn” chứ không có thẩm 
quyền nhận các khiếu nại của các cá nhân là 
nạn nhân của vi phạm nhân quyền trong khu 
vực [13]. 
3. Một số giải pháp tăng cường bảo đảm 
quyền dân sự, chính trị 
Để góp phần bảo đảm tốt hơn, có hiệu quả 
hơn các quyền dân sự, chính trị ở nước ta trong 
thời gian tới cần tập trung thực hiện các giải 
pháp sau đây: 
Một là, hình thành cơ quan độc lập tương 
đối với bộ máy nhà nước để tăng cường hiệu 
quả bảo đảm quyền con người nói chung, quyền 
dân sự, chính trị nói riêng. 
Thời gian tới, nước ta nên nghiên cứu thành 
lập cơ quan độc lập tương đối với bộ máy nhà 
nước với chức năng, nhiệm vụ chính là giám sát 
hoạt động của cơ quan hành chính và tòa án 
trong việc tuân thủ hiến pháp, pháp luật, tăng 
cường tính khách quan, công bằng, bảo đảm 
quyền của công dân không bị xâm phạm bởi 
hoạt động của cơ quan nhà nước. Cơ quan này 
sẽ do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập với 
các cơ quan nhà nước, chỉ chịu trách nhiệm 
trước Quốc hội. Hiện nay, đã có nhiều quốc gia 
hình thành các cơ quan độc lập tương đối với 
bộ máy nhà nước nhằm tăng cường hiệu quả 
bảo vệ và thúc đẩy quyền con người được gọi 
chung là thể chế hoặc cơ quan quốc gia về 
bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, như: 
Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Thụy Điểnđã 
thành lập thanh tra Quốc hội (Ombudsman), 
để bảo vệ quyền con người được tốt hơn. 
Trên cơ sở đó, Việt Nam có thể tham khảo, 
học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia trên để 
N.T.T. Nga / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 70-77 
76 
vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp vào bối 
cảnh của đất nước. 
Hai là, không ngừng tạo điều kiện để bảo 
đảm tốt hơn các quyền công dân về bầu cử, ứng 
cử, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do ngôn 
luận, hội họp, biểu tình 
Thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục thực 
hiện nghiêm túc các nghĩa vụ theo các điều ước 
quốc tế, công ước quốc tế về các quyền dân sự, 
chính trị và các công ước quốc tế khác mà Việt 
Nam là thành viên tham gia ký kết, gia nhập. 
Bên cạnh đó, cần nâng cao hơn nữa chất lượng 
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc 
biệt về các quyền dân sự, chính trị như: quyền 
bầu cử, ứng cử, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự 
do ngôn luận, hội họp, biểu tình song song kết 
hợp bồi dưỡng tinh thần yêu nước và lòng tự 
hào dân tộc cho công dân. 
Các quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tình 
là quyền của tất cả mọi người chứ không phải 
chỉ riêng công dân Việt Nam mới có quyền này. 
Theo đó, Hiến pháp năm 2013 cần sửa đổi theo 
hướng: “Mọi người có quyền tự do lập hội, tự 
do hội họp, biểu tình. Việc thực hiện các quyền 
này do luật quy định”. Để bảo đảm thực hiện 
các quyền này, không chỉ đòi hỏi sự quyết tâm 
chính trị cao, sự chỉ đạo quyết liệt hơn nữa 
trong việc xây dựng các đạo luật riêng nhằm cụ 
thể hóa các quy định của Hiến pháp, mà cần 
được nghiên cứu một cách nghiêm túc, cẩn 
trọng, chặt chẽ, không vội vàng, tránh tạo ra kẽ 
hở cho các thế lực thù địch lợi dụng việc tụ tập 
đông người, lòng yêu nước và sự thiếu hiểu biết 
của một bộ phận quần chúng nhân dân để kích 
động gây bất ổn định chính trị - xã hội. 
Ba là, nghiên cứu tham gia các Nghị định 
thư bổ sung của Công ước quốc tế về các quyền 
dân sự chính trị, ICCPR năm 1966. 
Việc Việt Nam tham gia các Nghị định thư 
bổ sung của Công ước quốc tế về các quyền dân 
sự, chính trị năm 1966 là cần thiết. Bởi chính 
việc tham giam gia này sẽ giúp công dân có thể 
gửi khiếu nại về quyền dân sự, chính trị tới các 
cơ quan nhân quyền Liên hiệp quốc mỗi khi có 
xảy ra sự xâm phạm quyền của các chủ thể mà 
nhiều nhất là chủ thể mang quyền lực nhà nước 
làm ảnh hưởng đến việc thụ hưởng quyền dân 
sự, chính trị của cá nhân. 
Bốn là, tăng cường đối thoại 
Ðối thoại nhằm mục tiêu lâu dài có ý nghĩa 
tích cực trong việc làm giảm bớt những bất 
đồng quan điểm, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, 
góp phần thúc đẩy quan hệ nhiều mặt giữa Việt 
Nam với các nước khác trên thế giới. Đồng 
thời, cần xác định rõ đối thoại là một trong 
những phương án hữu ích, có hiệu quả cao 
được lựa chọn, sử dụng để bác bỏ những thông 
tin, quan điểm sai trái, thậm chí xuyên tạc, bịa 
đặt, bóp méo thực tế về dân chủ, nhân quyền 
nói chung, quyền dân sự, chính trị nói riêng mà 
các thế lực thù địch tạo ra nhằm mục đích 
chống phá Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của 
Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Năm là, nâng cao hơn nữa vai trò của Nhà 
nước, các cấp các ngành, các tổ chức, đoàn thể 
trong việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị 
Bảo đảm quyền dân sự, chính trị ở Việt 
Nam là công việc không chỉ của các tổ chức 
trong hệ thống chính trị: Đảng Cộng sản Việt 
Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các 
tổ chức chính trị - xã hội, mà còn là nhiệm vụ 
của các tổ chức xã hội, các hiệp hội nghề 
nghiệp, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần 
kinh của của toàn cộng đồng xã hội. Vì vậy, để 
bảo đảm quyền con người, quyền công dân trên 
mọi lĩnh vực, đặc biệt là quyền dân sự, chính trị 
cần có sự phối hợp, huy động được sự tham gia 
của mọi lực lượng xã hội. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Pham Binh Minh, Vietnam’stalks with other 
countries on human rights and democracy, 
 (14th August 2010). 
(in Vietnamese) 
[2] Vietnam National University, Hanoi-School Law 
Department, Introduce International Covenant on 
Civil and Political Rights, Hong Duc Express, 
Hanoi, 2012, p.28, (in Vietnamese). 
[3] Assoc. Prof, Dr. Tuong Duy Kien & Assoc. Prof, 
Dr. Nguyen Thanh Tuan, 70 years of universal 
N.T.T. Nga / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 70-77 
77 
declaration of human rights, Time value and 
significance for Vietnam, 
 December 
2018), (in Vietnamese). 
[4] Tran Thi Hoe, Vietnamese government ensures 
human rights in the context of curent international 
integration, Philosophical thesis, Hanoi, 2015, p.1. 
(in Vietnamese). 
[5] The Great Vietnam dictionary, Vietnam National 
University Ho Chi Minh city, Ho Chi Minh, 2010, 
p.79, (in Vietnamese). 
[6] Hoang Phe, Vietnamese dictionary, Social 
sciences publishing house, Hanoi, 1998, p.54, (in 
Vietnamese). 
[7] Assoc. Prof, Dr. Hoang Thi Kim Que, General 
theory of law & state, Vietnam National 
University Press, Hanoi, 2005, p.252, (in 
Vietnamese). 
[8] Assoc. Prof. Dr. Vu Cong Giao, Questions and 
answers about human rights, the rights and 
obligations of citizens (edited), National Political 
Pulishing House, Hanoi, p.49, p.61, (in 
Vietnamese). 
[9] Article 3, Constitution of the Socialist Republic of 
Vietnam 2013, (in Vietnamese). 
[10] Hanh Ngan, Do theymake constructive comments 
or againstthe elections of deputies to the National 
Assembly and People's councils at all levels? 
 (12th May 
2016), (in Vietnamese). 
[11] Ministry of Foreign Affairs, 
Protection&Promotion ofhuman rights in 
Vietnam, Hanoi, 2017, p.28, (in Vietnamese). 
[12] Duc Quynh, It is important to understand 
freedom, religious belief,  
(22th January 2018), (in Vietnamese). 
[13] TTBD, Perfecting legal system of right to 
freedom of association in Vietnam, 
  (29th October 2018), (in 
Vietnamese). 

File đính kèm:

  • pdfbao_dam_cac_quyen_dan_su_chinh_tri_o_viet_nam_hien_nay_mot_s.pdf