Bàn về nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Việt Nam đã tiến hành đổi mới kinh tế và xây dựng nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa hơn 30 năm. Tới năm 2018, Việt Nam đã được

69 quốc gia (chưa có Mỹ và EU) công nhận là nước có nền kinh tế thị trường. Vì vậy,

Việt Nam tiếp tục thực hiện song song hai nhiệm vụ: phát triển kinh tế theo mục tiêu

định hướng xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện các thể chế để thế giới công nhận là nước

có nền kinh tế thị trường đầy đủ. Bài viết trình bày quan điểm về kinh tế thị trường,

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực trạng nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và một số khuyến nghị cho Việt Nam.

pdf 5 trang kimcuc 5380
Bạn đang xem tài liệu "Bàn về nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn về nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bàn về nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
44Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 02/2019
BÀN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
TS. Bùi Văn Can*. TS. Lý Hoàng Mai**
Tóm tắt: Việt Nam đã tiến hành đổi mới kinh tế và xây dựng nền kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hơn 30 năm. Tới năm 2018, Việt Nam đã được 
69 quốc gia (chưa có Mỹ và EU) công nhận là nước có nền kinh tế thị trường. Vì vậy, 
Việt Nam tiếp tục thực hiện song song hai nhiệm vụ: phát triển kinh tế theo mục tiêu 
định hướng xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện các thể chế để thế giới công nhận là nước 
có nền kinh tế thị trường đầy đủ. Bài viết trình bày quan điểm về kinh tế thị trường, 
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực trạng nền kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và một số khuyến nghị cho Việt Nam. 
Từ khóa: Kinh tế thị trường, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh 
tế Việt Nam.
Abstract: Vietnam has carried out economic reforms and realized a socialist-
oriented market economy for more than 30 years.Vietnam has been recognized by 69 
countries (except for US and EU) as a market economy country since 2018. Therefore, 
Vietnam continues to implement two paralleled tasks at a time: developing the socialist-
orientated market economy and perfecting institutions for being internationally 
recognized as the country with a full market economy. The paper presents the 
viewpoints on market economy, the socialist-oriented market economy and its current 
situation in Vietnam and some suggested recommendations for Vietnam.
Keywords: Market economy, socialist-oriented market economy, Vietnam economy.
1. Kinh tế thị trường và kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
a) Kinh tế thị trường
Khi phân tích sự hình thành nền kinh tế 
hàng hóa-tiền, K.Marx đã đưa ra khái niệm 
về nền kinh tế thị trường (KTTT) hiện đại 
ngày nay dựa trên hai điều kiện: phân công 
lao động xã hội và sở hữu tư nhân. 
KTTT khởi đầu từ quá trình sản xuất 
hàng hoá. Sản xuất hàng hoá là một kiểu 
tổ chức kinh tế mà sản phẩm được làm ra 
để bán trên thị trường. Trong kinh tế hàng 
hóa, toàn bộ quá trình sản xuất, phân phối 
và tiêu dùng đều thông qua hệ thống thị 
trường, do thị trường quyết định.
Ngày nay, nền KTTT của các nước 
công nghiệp phát triển (nhóm nước G7) 
được xem là những nền kinh tế tiêu biểu, 
hiện đại và hội nhập quốc tế sâu rộng. Để 
đạt được trình độ phát triển như ngày nay, 
các nước này đã trải qua cả một thời kỳ 
phát triển lâu dài. 
Nếu xem xét tiến trình phát triển của 
các hình thái kinh tế-xã hội, có thể thấy 
trong nền kinh tế thế giới đã tồn tại một 
số loại hình KTTT tiêu biểu sau:
- Kinh tế thị trường tự do: Ra đời trong 
thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh 
(tiêu biểu là Mỹ). Mô hình KTTT tự do đề 
cao sở hữu tư nhân, tự do cá nhân, tự do 
* Chủ nhiệm khoa Kinh tế Trường ĐH KD&CN Hà Nội.
**Giảng viên khoa Kinh tế Trường ĐH KD&CN Hà Nội.
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
45Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 02/2019
kinh doanh, tự do cạnh tranh, đề cao vai trò 
tự điều tiết bằng “bàn tay vô hình” của thị 
trường đối với mọi hoạt động của nền kinh 
tế. Trong mô hình này, nhà nước không 
can thiệp quá nhiều vào nền kinh tế, chỉ tập 
trung phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, bảo 
vệ sở hữu tư nhân, các quyền tự do cá nhân, 
ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập các hành lang 
pháp lý để thị trường vận hành.
- Kinh tế thị trường xã hội: Mô hình 
KTTT này (tiêu biểu là CHLB Đức) thừa 
nhận những yếu tố cơ bản, phổ biến, nền 
tảng của KTTT, như cấu trúc đa sở hữu 
với kinh tế tư nhân là nòng cốt, cơ chế 
cạnh tranh, sự điều tiết của thị trường đối 
với giá cả,... Tuy nhiên, mô hình này lại 
coi trọng các mục tiêu xã hội, như công 
bằng xã hội, phúc lợi xã hội,... Họ cho 
rằng muốn giải quyết tốt các vấn đề xã 
hội, cần phải đẩy mạnh nhịp độ tăng 
trưởng kinh tế, phân phối thu nhập công 
bằng và xây dựng hệ thống bảo hiểm xã 
hội. Mô hình này đánh giá cao vai trò của 
nhà nước trong việc dẫn dắt nền kinh tế, 
không chỉ vì mục tiêu tăng trưởng và hiệu 
quả kinh tế, mà còn cả vì mục tiêu phát 
triển và hiệu quả xã hội.
- Kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi: 
Tương tự mô hình KTTT của CHLB Đức, 
mô hình KTTT này (tiêu biểu là Thụy Điển) 
dựa trên những nền tảng cơ bản chung của 
KTTT, nhưng đồng thời mong muốn kết 
hợp hài hoà giữa KTTT với bảo đảm phúc 
lợi xã hội cho toàn dân thông qua vai trò 
điều tiết, phân phối lại của nhà nước. Nhà 
nước đánh thuế cao đối với thu nhập của 
các đối tượng, nhất là đối với tài sản thừa 
kế, và đánh thuế lũy tiến đối với các mức 
thu nhập cao. Từ nguồn thu đó, nhà nước 
thực hiện các chính sách phúc lợi về y tế, 
giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ cho 
toàn dân, chính sách đối với người cao 
tuổi, người khó khăn, trẻ em,...
Dù nền KTTT ở các quốc gia có thể 
vận hành theo những mô hình nào thì đều 
có chung những đặc trưng là: các chủ thể 
kinh tế đa dạng, có quyền tự do kinh doanh 
và có tính tự chủ cao trong hoạt động kinh 
doanh; giá cả hàng hóa chịu sự chi phối của 
thị trường; thị trường chịu sự chi phối của 
các quy luật, như quy luật giá trị, quy luật 
cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ,
Một đặc trưng quan trọng nữa là nền KTTT 
là nền kinh mở, lợi nhuận là động lực thúc 
đẩy thị trường phát triển và các chủ thể 
tham gia thực hiện hành vi kinh doanh. 
Ngày nay, nền KTTT đã phổ biến trên 
toàn thế giới, trở thành giá trị chung của nhân 
loại, là phương tiện hiệu quả trong khai thác 
và phân bổ nguồn lực. Giá trị mà nó mang 
lại cho đời sống vật chất cũng như tinh thần 
của con người được thực tiễn khẳng định. 
Bên cạnh đó, thị trường có thể gây ra một 
số ảnh hưởng tiêu cực đối với phúc lợi xã 
hội của một bộ phận dân cư hoặc một nhóm 
ngành nghề nào đó, đòi hỏi vai trò của nhà 
nước và xã hội cần phải được phát huy. Vì 
thế, tùy thuộc vào điều kiện và tư duy phát 
triển, mỗi nước sẽ lựa chọn cho mình một 
mô hình KTTT phù hợp. Đối với Việt Nam, 
đó là nền kinh tế thị trường định hướng 
xã hội chủ nghĩa (KTTTĐHXHCN). 
b) Kinh tế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa
KTTTĐHXHCN là một kiểu tổ chức 
kinh tế, vừa dựa trên những nguyên tắc và 
quy luật của KTTT, vừa dựa trên cơ sở và 
được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc 
và bản chất của CNXH. Đại hội XI (2011) 
của Đảng CSVN khẳng định: “Nền kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở 
nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành 
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự 
quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của 
Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những 
quy luật của kinh tế thị trường, vừa được 
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
46Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 02/2019
dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản 
chất của chủ nghĩa xã hội” [1, tr. 34]. 
Nền KTTTĐHXHCN ở Việt Nam 
có các yếu tố vừa đảm bảo định hướng 
XHCN trong quan hệ sản xuất nhằm xây 
dựng kiến trúc thượng tầng, chế độ chính 
trị theo mô hình CNXH vừa đảm bảo yêu 
cầu của một nền KTTT hiện đại và hội 
nhập quốc tế. Đại hội XII của Đảng (2016) 
chủ trương: “Nền kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền 
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các 
quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời 
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù 
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất 
nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện 
đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của 
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do 
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm 
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, 
công bằng, văn minh” [2, tr. 102].
Một điểm quan trọng nữa của nền 
KTTTĐHXHCN ở Việt Nam là nền kinh 
tế vì con người, coi con người là trung tâm 
của sự phát triển, lấy thành quả của sự phát 
triển kinh tế để giải quyết tốt các vấn đề xã 
hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. 
2. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam
Thực hiện những chủ trương của 
Đảng, hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế 
Việt Nam đã có nhiều cải cách để phát 
triển các thành phần kinh tế với các hình 
thức sở hữu đan xen, cụ thể: 
- Khu vực kinh tế nhà nước được tái 
cấu trúc theo hướng giảm về quy mô, tăng 
chất lượng và hiệu quả. Số lượng doanh 
nghiệp nhà nước (DNNN) giảm từ 12.000 
(năm 1999) xuống còn khoảng 600 doanh 
nghiệp năm 2018, chủ yếu là các doanh 
nghiệp lớn, độc quyền nhà nước, tuy nhiên, 
Nhà nước vẫn giữ khoảng 90% vốn điều lệ 
[5]. Cải cách DNNN được xem như một 
nhiệm vụ then chốt trong tiến trình đổi mới 
nền kinh tế nước ta, là khâu đột phá nhằm 
hoàn thiện hệ thống cộng cụ của Nhà nước 
trong quản lý và phát triển KTTT.
- Khu vực kinh tế tư nhân được 
khuyến khích và tạo hành lang pháp lý để 
phát triển. Năm 2013 cả nước có 328.830 
doanh nghiệp tư nhân (gồm công ty tư 
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và 
công ty cổ phần tư nhân), nhưng sau bốn 
năm, tức năm 2017, số doanh nghiệp tư 
nhân đã tăng lên 561.064 [4].
Hình 1: Tăng trưởng GDP 2009 – 2018 (%)
Nguồn: VnEconomy, Toàn cảnh bức tranh kinh tế Việt Nam 2018 qua các con số, truy 
cập 29/12 (
so-20181229165630823.htm).
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
47Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 02/2019
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 
ngoài tăng nhanh. Nhà nước đã có nhiều 
chính sách ưu đãi để thu hút khu vực 
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), 
số lượng doanh nghiệp này năm 2017 là 
14,6 nghìn, tăng 54,2% so với thời điểm 
01/01/2012, bình quân hàng năm tăng 
9,2% [6]. 
Trên 30 năm đổi mới kinh tế (1986-
2017), đặc biệt là giai đoạn trước khủng 
hoảng tài chính toàn cầu năm 1997, tốc 
độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 
liên tục giữ ở mức cao hơn 7%/năm. Sau 
năm 2008, do tác động của khủng hoảng 
kinh tế toàn cầu, GDP năm 2009 giảm 
còn 5,32%, nhưng đến năm 2010 tăng 
lên 6,78% và năm 2018 đạt tốc độ tăng 
trưởng cao hơn: 7,08% (H.1).
Tăng trưởng kinh tế tạo ra những tiền 
đề giúp Việt Nam thực hiện mục tiêu định 
hướng XHCN: “Dân giàu, nước mạnh, 
dân chủ, công bằng, văn minh”. Từ một 
nước nghèo, Việt Nam đã vươn lên thành 
một nước có thu nhập trung bình thấp 
vào năm 2008. Theo Báo cáo của Ngân 
hàng thế giới (WB), cho đến thời điểm 
năm 2018, có tới 70% dân số Việt Nam 
đã được bảo đảm về mặt kinh tế, trong 
đó 13% thuộc tầng lớp trung lưu theo 
chuẩn thế giới. Tầng lớp này đang phát 
triển nhanh chóng, tăng hơn 20% trong 
giai đoạn 2010-2017. Từ năm 2014, trung 
bình mỗi năm có 1,5 triệu người Việt Nam 
gia nhập tầng lớp trung lưu toàn cầu.
Tình trạng đói nghèo ở Việt Nam, đặc 
biệt là trong các dân tộc thiểu số, tiếp tục 
giảm mạnh, tới 13% là mức giảm lớn nhất 
trong thập niên vừa qua [7]. Với những 
nỗ lực trong việc điều chỉnh các chính 
sách, đặc biệt là chính sách xóa đói giảm 
nghèo, chính sách an sinh xã hội, Việt 
Nam đã đạt được những kết quả nhất định 
trong việc thực hiện mục tiêu định hướng 
XHCN theo điều 59 của Hiến pháp 2013: 
“Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để 
công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát 
triển hệ thống an sinh xã hội”. 
Tuy đạt được một số kết quả nhất 
định trong việc thực hiện mục tiêu định 
hướng XHCN, nhưng hiện nay nền 
KTTTĐHXHCN của Việt Nam vẫn gặp 
phải các nút thắt trong qua trình phát triển. 
Thứ nhất, tốc độ phát triển giữa các 
vùng vẫn có sự chênh lệch đáng kể và 
hình thành nên những “túi nghèo” của 
đất nước. Người nghèo, cận nghèo, 
nhóm 40% nghèo nhất phân bổ trên cả 
nước, nhưng vẫn chủ yếu tập trung ở khu 
vực nông thôn, bao gồm 82% người cận 
nghèo và 84% nhóm 40% nghèo nhất. 
Có rất ít người nghèo sống tại các trung 
tâm đô thị lớn, lần lượt chỉ là 2% người 
nghèo, 4% người cận nghèo và 3% của 
nhóm 40% nghèo nhất. Trong nhóm 40% 
nghèo nhất, có tới 70% sinh sống tại bốn 
khu vực: Đồng bằng sông Hồng, miền 
núi Đông Bắc Bộ, Duyên hải miền Trung 
và Đồng bằng sông Cửu Long (World 
Bank 2016) [9].
Thứ hai, hệ số GINI (bất bình đẳng 
thu nhập) của Việt Nam có xu hướng gia 
tăng. Nếu như năm 1993 chỉ là 0.33, thì 
đến năm 2016 đã tăng lên 0.44. Bên cạnh 
đó, chênh lệch giữa nhóm 20% dân số 
giàu nhất so với nhóm 20% dân số nghèo 
nhất chỉ khoảng 4,4 lần, thì đến năm 2016 
đã tăng lên 10 lần [3].
Thứ ba, cho đến nay Việt Nam vẫn 
chưa được Mỹ và EU công nhận là nước 
có nền KTTT đầy đủ.
3. Một số khuyến nghị
Từ việc phân tích thực trạng nền 
KTTTĐHXHCN ở Việt Nam, có thể thấy 
trong thời gian tới Việt Nam cần tiếp tục 
nỗ lực cải cách thể chế để gỡ bỏ ba nút 
thắt của sự phát triển:
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
48Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 02/2019
Một là, Nhà nước phải làm tốt vai trò 
kiến tạo thị trường, sử dụng “bàn tay hữu 
hình” để khắc phục những thất bại của thị 
trường, tạo môi trường kinh doanh bình 
đẳng cho các bên tham gia thị trường. 
Điều đó có nghĩa là vai trò của Nhà nước 
phải thực hiện tốt các chính sách an sinh 
xã hội, tạo lập một hành lang pháp lý 
công bằng, hiệu lực để thị trường hoạt 
động hiệu quả. Ban hành và áp dụng một 
hệ thống luật pháp thống nhất đối với các 
chủ thể và thành phần kinh tế tham gia thị 
trường, đảm bảo hiệu quả, minh bạch và 
phù hợp với các cam kết hội nhập. 
Hai là, cần thu hẹp khoảng cách 
phân phối thu nhập giữa nhóm giàu 
nhất và nghèo nhất ở Việt Nam bằng 
việc sửa đổi chính sách thuế thu nhập 
theo hướng giảm bớt sự đánh thuế vào 
tiêu dùng và lao động, tăng đánh thuế 
vào vốn, tài sản và thu nhập từ các 
nguồn tài sản. Xây dựng cơ chế giám 
sát, theo dõi, đánh giá chặt chẽ và minh 
bạch hiệu quả của các chương trình mục 
tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo. 
Có biện pháp để những sự hỗ trợ này 
đến được đúng địa chỉ và đối tượng cần 
thụ hưởng chính sách. Có cơ chế giám 
sát, nâng cao chất lượng quản lý đầu tư 
công, cũng như cải thiện chất lượng các 
dịch vụ công, để các kết quả đầu tư đến 
được với người nghèo.
Ba là, nên điều chỉnh chính sách xóa 
đói giảm nghèo theo hướng giải quyết 
trực tiếp nguyên nhân của đói nghèo, 
trao cho các hộ gia đình nghèo “cần câu” 
hơn là “con cá”. Chính sách xóa đói giảm 
nghèo nên phối hợp thực hiện cùng với 
chính sách đa dạng hóa sinh kế, đào tạo, 
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, 
phổ biến kiến thức, cách thức sản xuất và 
chuyển giao kỹ thuật,
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. 
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn 
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016. 
3. Bài toán tăng trưởng bao trùm và bất bình đẳng. Báo Tuổi trẻ Online, 2017. https://
tuoitre.vn/bai-toan-tang-truong-bao-trum-va-bat-binh-dang-201711071017237 24.htm. 
4. Cả nước có 561.064 doanh nghiệp đang hoạt động. Thời báo Tài chính Việt 
Nam online, 2018. 
ca-nuoc-co-561064-doanh-nghiep-dang-hoat-dong-53582.aspx
5. Đổi mới doanh nghiệp nhà nước: nhiều tồn tại cần xử lý sớm. Thời báo Tài 
chính Việt Nam online, 2018. 
11-21/doi-moi-doanh-nghiep-nha-nuoc-nhieu-ton-tai-can-xu-ly-som-64545.aspx. 
6. Số lượng doanh nghiệp FDI tăng mạnh. Báo “Kinh tế & Đô thị”. Hà Nội, 2018, 
7. Thiên Kim (2018). Tầng lớp trung lưu tăng và tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam 
tiếp tụcgiảm, https://doanhnghiepvn.vn/tang-lop-trung-luu-tang-va-ty-le-doi-ngheo-
o-viet-nam-tiep-tuc-giam-d123489.html. 
8. Toàn cảnh bức tranh kinh tế Việt Nam 2018 qua các con số. VnEconomy, 2018.
9. World Bank (2016). Báo cáo đánh giá quốc gia Việt Nam 2016. 

File đính kèm:

  • pdfban_ve_nen_kinh_te_thi_truong_dinh_huong_xa_hoi_chu_nghia_o.pdf