Bàn về cơ sở khoa học cho việc áp dụng phương pháp chiết tự trong dạy học chữ Hán hiện nay

Khác với các ngôn ngữ ký âm khác, chữ Hán là chữ biểu ý, khó học, khó nhớ, khó viết, hay quên

bởi độ phức tạp của nó. Thế nhưng hiện nay, việc dạy học chữ Hán chủ yếu dạy giống như ngôn

ngữ ký âm, chưa coi trọng và chưa hiểu đúng về chữ Hán. Trong đó, chiết tự là một phương pháp

phân tích các yếu tố cấu tạo hình thể chữ Hán cả ba phương diện hình, âm và nghĩa để đoán biết ý

nghĩa của chữ hoặc của từ tố, được nghiên cứu, ứng dụng trong dạy học chữ Hán gần 2000 năm.

Trong phạm vi bài viết, chúng tôi muốn đưa ra một số căn cứ khoa học áp dụng phương pháp chiết

tự, giúp người dạy có cái nhìn tổng quan về nội dung dạy học và đối tượng dạy học, từ đó có thể

linh hoạt sử dụng phương pháp giảng dạy phù hợp, giảm gánh nặng cho người học, góp phần khắc

phục một số vấn đề trong dạy học chữ Hán hiện nay, nâng cao chất lượng dạy học.

pdf 12 trang kimcuc 6240
Bạn đang xem tài liệu "Bàn về cơ sở khoa học cho việc áp dụng phương pháp chiết tự trong dạy học chữ Hán hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn về cơ sở khoa học cho việc áp dụng phương pháp chiết tự trong dạy học chữ Hán hiện nay

Bàn về cơ sở khoa học cho việc áp dụng phương pháp chiết tự trong dạy học chữ Hán hiện nay
3KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
LÊ QUANG SÁNG*
*Đại học Ngoại thương, lequangsang@ftu.edu.vn
Ngày nhận bài: 05/10/2018; ngày sửa chữa: 03/11/2018; ngày duyệt đăng: 20/12/2018
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chữ Hán khó học, khó nhớ, đọc, khó viết, là 
lời than vãn chung của đại đa số người học chữ 
Hán. Sinh viên học tiếng Hán ở giai đoạn cơ sở, 
khó khăn chính là việc nhớ và viết được chữ Hán. 
Có rất nhiều sinh viên bỏ ra một lượng lớn thời 
gian để học viết chữ Hán, nhưng hiệu quả lại 
không cao, cũng không ít học sinh thi không qua 
chỉ vì khả năng nhận biết và nhớ chữ Hán hạn chế. 
Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu Nguyễn Bảo 
Ngọc (2014, tr.29) về lỗi sai thường gặp của sinh 
viên Đại học Ngoại thương, việc quên chữ khi viết 
khá thường xuyên, chiếm tỷ lệ trên 50%. Theo kết 
BÀN VỀ CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHIẾT TỰ
 TRONG DẠY HỌC CHỮ HÁN HIỆN NAY
TÓM TẮT
Khác với các ngôn ngữ ký âm khác, chữ Hán là chữ biểu ý, khó học, khó nhớ, khó viết, hay quên 
bởi độ phức tạp của nó. Thế nhưng hiện nay, việc dạy học chữ Hán chủ yếu dạy giống như ngôn 
ngữ ký âm, chưa coi trọng và chưa hiểu đúng về chữ Hán. Trong đó, chiết tự là một phương pháp 
phân tích các yếu tố cấu tạo hình thể chữ Hán cả ba phương diện hình, âm và nghĩa để đoán biết ý 
nghĩa của chữ hoặc của từ tố, được nghiên cứu, ứng dụng trong dạy học chữ Hán gần 2000 năm. 
Trong phạm vi bài viết, chúng tôi muốn đưa ra một số căn cứ khoa học áp dụng phương pháp chiết 
tự, giúp người dạy có cái nhìn tổng quan về nội dung dạy học và đối tượng dạy học, từ đó có thể 
linh hoạt sử dụng phương pháp giảng dạy phù hợp, giảm gánh nặng cho người học, góp phần khắc 
phục một số vấn đề trong dạy học chữ Hán hiện nay, nâng cao chất lượng dạy học. 
Từ khóa: cơ sở, chiết tự, chữ Hán, dạy học, phương pháp 
quả khảo sát 150 bài viết của sinh viên Khoa Ngôn 
ngữ và Văn hóa Trung Quốc, Đại học Ngoại ngữ - 
Đại học Quốc gia Hà Nội của Nguyễn Đình Hiền 
(2017, tr.23) có 1147 chữ viết có vấn đề, trong đó: 
502 chữ viết nhầm, 460 chữ viết sai, 166 chữ viết 
phiên âm, 19 chữ không viết. Thực trạng dạy học 
chữ Hán hiện nay đặt ra nhiều vấn đề, nếu tính 
theo thang đánh giá năng lực của Bloom (1956) thì 
khả năng nhớ chưa đạt được mục tiêu mong muốn, 
mục tiêu hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp, đánh 
giá và sáng tạo còn có khoảng cách khá xa. 
Nguyên nhân dẫn đến kết quả không mong 
muốn nêu trên đến từ hai nguyên nhân chính: Một 
4 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
là bản thân chữ Hán phức tạp, khó; Hai là phương 
pháp dạy học thiên về chú trọng dạy viết theo nét 
viết, nguyên tắc viết, chưa khai thác tốt đặc điểm 
biểu ý của chữ, làm cho việc học của sinh viên 
khó còn khó hơn. Chữ Hán đã trải qua 5 hình thái 
phát triển từ chữ Giáp cốt – Kim văn – Triện văn 
– Lệ văn và Khải văn theo hướng đơn giản hóa về 
hình thể, một mặt không ngừng bổ sung các yếu 
tố âm thanh để đạt mục đích ghi lại lời nói (trên 
80% chữ hình thanh), một mặt cố lưu giữ giá trị ý 
nghĩa của chữ, việc hiểu được một chữ Hán cũng 
cần khá nhiều công sức. Đến chữ giản thể ngày 
nay, chữ Hán vẫn có quá nhiều nét viết, trung bình 
một chữ khoảng 11 nét viết, vượt xa khả năng ghi 
nhớ của con người (7±2), điều này làm cho người 
học khó viết, khó nhớ. Các giáo trình dạy học hiện 
nay chủ yếu viết theo cách học chữ ký âm, tuy có 
phân tích chữ Hán, nhưng chủ yếu phân tích theo 
nét viết, quy luật bút thuận tiện cho việc viết chữ, 
đặc điểm của chữ Hán chưa được thể hiện rõ. Thế 
nên, cách dạy chữ Hán chủ yếu dạy viết theo nét, 
quy tắc bút thuận, dạy theo bộ kiện chỉ là bổ trợ, 
chưa khai tốt đặc điểm chữ biểu ý của chữ, chưa 
biết cách tổ hợp lại khối thông tin (tổ hợp các nét 
viết: bộ kiện) để phù hợp với khả năng nhận thức 
của con người. Cách dạy lấy nét viết làm trung tâm 
này có thể giúp người học sau một thời gian có thể 
viết được một chữ mới đúng quy tắc, nhưng cách 
dạy này không phù hợp với khả năng ghi nhớ của 
con người, làm cho chữ Hán vốn đã khó lại càng 
khó hơn, nên hiệu quả dạy học chưa thật hoàn hảo. 
Qua quá trình khảo cứu và ứng dụng phương 
pháp chiết tự ở các lớp tại Đại học Ngoại thương, 
chúng tôi thấy hiệu quả rõ rệt, tăng khả năng ghi 
nhớ, khả năng hiểu, phân tích, đặc biệt không khí 
lớp và sự hứng thú của sinh viên được cải thiện rõ 
rệt. Thế nhưng, việc ứng dụng rộng rãi vẫn còn rất 
khó khăn.
Trên thực tế, việc áp dụng các phương pháp 
chiết tự chữ Hán trong quá trình dạy học đã được 
Trung Quốc coi trọng hơn hai ngàn năm nay. Chiết 
tự là phương pháp giúp người học chữ Hán dễ nhớ 
chữ, được nảy sinh trên cơ sở nhận thức về chữ 
Hán cả ba phương diện hình, âm, nghĩa, nhưng 
chủ yếu là hình thể chữ. Chiết tự là một phương 
pháp phân tích các yếu tố cấu thành của chữ để xác 
định nguồn gốc, ý tưởng tạo chữ, ý nghĩa của chữ. 
Theo “Từ điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên 
(2009, tr.216): “Chiết tự (1) phân tích chữ (nói về 
chữ Hán) ra từng yếu tố mà đoán việc lành dữ theo 
một thuật bói toán ngày xưa. (2) Dựa theo các ý 
nghĩa của các yếu tố cấu thành mà xác định nghĩa 
của cả chữ hoặc của cả từ”. 
Với ý nghĩa thứ 2 trong định nghĩa của Hoàng 
Phê, từ thời Đông Hán, Hứa Thận/许慎 đã phân 
tích chữ Hán một cách hệ thống nhất trên cả ba 
phương diện hình, âm và nghĩa trong “Thuyết văn 
giải tự” trên cơ sở lý luận Lục thư. Sau này, các 
nhà nghiên cứu đứng trên các phương diện khác 
nhau đi sâu nghiên cứu chữ Hán, hình thành các 
hướng nghiên cứu như cấu tạo chữ Hán, kết cấu 
chữ Hán, hình nghĩa chữ Hán, chữ Hán và văn 
hóa, chữ Hán và triết học., đều dựa trên cơ sở 
nhận thức chữ Hán về cả ba phương diện hình, 
âm, nghĩa ở các mức độ khác nhau mà trọng tâm 
là hình thể chữ Hán. Một số kết quả nghiên cứu 
tiêu biểu như “Cấu hình học Hán tự/汉字构形学” 
(Vương Ninh/王宁, 2015), “Giải tích hình nghĩa 
chữ thường dùng trong dạy học chữ Hán /汉字教
学常用字形义解析” (Kim Văn Vĩ/金文伟, Tăng 
Hồng Ôn Lê/曾红温莉, 2012)... Có thể chia làm 
ba hướng nghiên cứu sau: chiết tự theo Lục Thư, 
chiết tự theo kết cấu và chiết tự theo hình, âm và 
nghĩa và được ứng dụng khá rộng rãi trong dạy 
học ở các mức độ khác nhau ở Trung Quốc (Lê 
Quang Sáng, 2017, tr.43).
Việc nghiên cứu áp dụng phương pháp chiết tự 
trong giảng dạy ở Việt Nam, cũng được nhiều giảng 
viên coi trọng. Một số kết quả nghiên cứu tiêu biểu 
như: “Một số suy nghĩ về việc dạy Hán Nôm” của 
Phan Đăng (Khoa ngữ văn Đại học Sư phạm Huế, 
2004), “Giảng dạy chữ Hán bằng phương pháp 
Chiết tự” của Lê Quang Sáng (Kỷ yếu khoa học, 
Đại học Ngoại thương, 2008), cũng đã đề cập, 
đề xuất sử dụng phương pháp chiết tự trong giảng 
dạy tiếng Hán, nhằm nâng cao chất lượng dạy học. 
Các nghiên cứu đa phần vẫn dừng lại ở kết quả ban 
đầu (đề xuất kiến nghị), mà chưa có nhiều nghiên 
5KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
cứu chuyên sâu, mang tính ứng dụng cao, chưa có 
nhiều nghiên cứu mang tính thực nghiệm, kiểm 
chứng. Theo khảo sát của TS Nguyễn Thị Thu 
Trang (2016) cả ba khu vực Bắc, Trung, Nam, tỷ 
lệ giảng viên thích sử dụng phương pháp dạy chữ 
theo hình, dạy chữ theo nghĩa của chữ, dạy chữ 
theo hình, âm, nghĩa đều chiếm trên 80%. 
Giờ dạy chữ Hán khá khó dạy, vì chữ khó 
nhớ, sinh viên dễ chán, dễ mệt mỏi. Khi áp dụng 
phương pháp chiết tự chữ Hán, sinh viên rất hứng 
thú, chất lượng dạy học cải thiện rõ rệt, sinh viên 
nhớ được, đọc được và viết được ngay. Phương 
pháp này giúp sinh viên không chỉ nhớ tốt chữ 
Hán mà còn tăng sự hiểu biết về văn hóa Hán, về 
nhân sinh quan, thế giới quan. Nhưng việc áp dụng 
phương pháp chiết tự trong giảng dạy khá hạn chế, 
lối chiết tự theo các cách khác nhau, không có sự 
thống nhất, đôi khi thiếu tính khoa học. Để thực sự 
hiểu một chữ, mất rất nhiều công sức, nhưng thời 
lượng dành cho việc giảng dạy sâu về chữ Hán lại 
rất ít. Giờ giảng trên lớp không nhiều, các kiến 
thức khác để bổ trợ cho các kỹ năng khác cũng cần 
nhiều thời gian chuẩn bị, nên trên thực tế không 
phải giảng viên nào cũng đủ thời gian để tra cứu 
các chữ xuất hiện trong bài khóa (vì từ mới xuất 
hiện trong bài khá nhiều).
Chất lượng dạy học chữ Hán hiện nay chưa 
cao, phương pháp chiết tự hiệu quả, nhưng thời 
lượng áp dụng cho phương pháp này không nhiều, 
cần có thay đổi nhận thức đối với chữ Hán và 
phương pháp dạy học phù hợp. Muốn có thay đổi, 
cần phải có cơ sở lý luận vững chắc cho việc áp 
dụng phương pháp này. Trong phạm vi bài viết, 
chúng tôi xin phép không trình bày về phương 
pháp chiết tự chữ Hán mà chỉ giới hạn ở một số 
căn cứ cho việc việc ứng dụng phương pháp chiết 
tự trong dạy học chữ Hán hiện nay, hy vọng bài 
viết có thể giúp những người làm công tác dạy học 
chữ Hán cái nhìn tổng thể về chữ viết trong tiếng 
Hán và tiếng Việt, khả năng nhận thức của con 
người, cũng như những khó khăn của người học, 
từ đó có thể linh hoạt sử dụng phương pháp giảng 
dạy phù hợp, nâng cao hiệu quả dạy học. 
2. CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC ÁP 
DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHIẾT TỰ
Đứng ở góc độ dạy học, chiết tự là một phương 
pháp dùng để phân tích chữ Hán chủ yếu theo bộ 
kiện, nhằm giúp người học hiểu sâu về chữ Hán, 
từ đó dễ học hơn, dễ nhớ hơn, nhớ lâu hơn, khó 
quên hơn, thông qua việc phân tích còn hiểu hơn 
về văn hóa nhân sinh của người Trung Quốc, dưới 
đây chúng tôi xin trình bày một số căn cứ cho việc 
áp dụng phương pháp này trong quá trình dạy học. 
2.1. Xuất phát từ chất lượng dạy học chữ 
Hán hiện nay
 Theo kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu 
Nguyễn Bảo Ngọc (2014) về Lỗi sai thường gặp 
khi viết chữ Hán của sinh viên khoa tiếng Trung 
Quốc trường Đại học Ngoại thương qua các bài 
kiểm tra tiếng Trung Quốc cơ bản 1, tiếng Trung 
Quốc cơ bản 2, tiếng Trung tổng hợp 1, tiếng Trung 
tổng hợp 2, Viết 1 của 16 sinh viên K50, 18 sinh 
viên K51, 18 sinh viên K52, thu thập được 828 lỗi 
sai. Kết quả là lỗi sai nét chữ Hán 50,4%, bộ kiện 
(部件)1 26,4%, viết sai chữ viết nhầm chữ 18,5%, 
lỗi do ảnh hưởng tiếng Việt 4,7%, lỗi nhầm chữ 
chiếm 18,5%. Lỗi sai về nét viết chiếm hơn một 
nửa. Tình trạng quên chữ Hán khi viết của 90 sinh 
viên khóa K50, K51, K52 giai đoạn sơ cấp, ở các 
mức độ thường xuyên, thỉnh thoảng, ít khi quên và 
không. Kết quả thu được như sau:
Bảng 1: Kết quả tình trạng quên chữ Hán
của sinh viên
Mức độ Thường 
xuyên
Thỉnh 
thoảng
Ít khi 
quên
Không
Số 
lượng
47 42 1 0
Tỷ lệ 52% 47% 1% 0%
Nhìn vào kết quả quên chữ của sinh viên cho 
thấy kết quả rất đáng báo động, cần thiết phải tìm 
phương pháp dạy học phù hợp để nâng cao chất 
lượng dạy học.
6 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
Chúng tôi tiến hành một cuộc khảo sát về cách 
học của sinh viên và cách dạy của giảng viên theo 
đặc điểm của chữ Hán. Giả thiết của chúng tôi là 
nếu giảng viên dạy theo hướng khai thác tốt đặc 
điểm chữ Hán, phân tích các yếu tố cấu thành chữ, 
thì sinh viên sẽ hình thành được thói quen phân tích 
chữ, biết cách phân tích các bộ kiện, các yếu tố cấu 
thành chữ giúp cho việc nhớ nhanh, nhớ lâu, hiểu 
chữ trong quá trình học. Đối với sinh viên, chúng 
tôi khảo sát 74 sinh viên thuộc các chuyên ngành 
có liên quan đến tiếng Trung đã và đang học tập tại 
trường Đại học Ngoại thương, tỷ lệ các khóa như 
sau: 44,6% sinh viên K52, 32,4 % sinh viên K53, 
còn lại là sinh viên K54, K55 và cựu sinh viên, 
trong đó có 40/74 phiếu sinh viên chuyên ngành 
tiếng Trung thương mại, 31 phiếu sinh viên chuyên 
ngành Kinh tế đối ngoại và 3 phiếu sinh viên các 
khoa khác. Đa phần sinh viên tham gia khảo sát đã 
học Tiếng Trung từ Trung học phổ thông, chỉ có 
31,1% số mẫu khảo sát học 1 - 3 năm (tức là bắt 
đầu học từ khi vào Đại học). Điểm chú ý thứ hai 
khi tiến hành khảo sát phương pháp tự học ở nhà 
đó là các bạn sinh viên vẫn học nhớ chữ bằng cách 
viết đi viết lại nhiều lần. Đồng thời người tham 
gia cũng thừa nhận cách dạy và học như hiện tại 
đang là rào cản để nhớ mặt chữ. Sự phát triển của 
công nghệ thông tin, các phần mềm gõ chữ hiện 
đại xuất hiện, việc viết bằng tay không còn phổ 
biến khiến phương pháp học truyền thống không 
còn hiệu quả khi học ngôn ngữ này. Chúng tôi 
thống kê hai câu hỏi về việc áp dụng phương pháp 
chiết tự, trong bài chúng tôi sử dụng là phương 
pháp phân tích chữ, vì hiện nay có cách hiểu khác 
nhau về chiết tự theo hướng chưa thật chính xác 
(Lê Quang Sáng, 2017). Kết quả như biểu đồ 1. 
Kết quả khảo sát cho thấy, chỉ có 24.3% sinh 
viên cho rằng, giảng viên thường xuyên sử dụng 
phương pháp phân tích chữ, còn đa số các thầy cô 
đã áp phương pháp này ở mức độ không thường 
xuyên và thấp, chủ yếu dừng lại ở những chữ dễ, 
khá nhận biết. Khi được hỏi về các phương pháp 
phân tích chữ mà các thầy cô áp dụng, thì câu trả 
lời rất chung chung, cho thấy sinh viên vẫn rất mơ 
hồ về phương pháp này. (Xem biểu đồ 2). 
Vì hiện nay, cách hiểu phổ biến của người Việt 
coi bộ kiện là bộ thủ, nên để kết quả sát với nhận 
thức hơn, chúng tôi sử dụng khái niệm bộ thủ khi 
hỏi. Kết quả cho thấy, cách dạy theo bộ thủ làm 
trung tâm khá hạn chế chỉ chiếm 28,4%. Việc đưa 
ra sự lựa chọn giữa hai phương pháp, sinh viên 
cũng rất khó phân biệt và câu trả lời an toàn hơn 
là cả hai cách trên, chiếm tới 47.3%. Khi đề cập 
đến phương pháp chiết tự chữ Hán trong giảng 
dạy cũng như đánh giá hiệu quả của việc áp dụng 
phương pháp này, phần đông đều cho rằng việc áp 
dụng khá hữu hiệu, đem lại kết quả khả quan cho 
Biểu đồ 1: Kết quả mức độ thường xuyên sử dụng 
phương pháp phân tích chữ trong dạy học
Biểu đồ 2: Kết quả sử dụng các phương pháp 
trong dạy học
7KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
người học. Thế nhưng, khi được hỏi về việc phân 
tích chữ trong dạy học như các thầy cô có hướng 
dẫn cách để nhớ chữ như khẩu quyết các bộ thủ, 
phân tích nghĩa các bộ thủ cấu tạo nên nghĩa chữ, 
học chữ qua câu ca, câu vè, các sự tích có liên 
quan, qua đó tạo ấn tượng mạnh với người học 
hay không thì câu trả lời thường rất chung chung 
và nhiều câu trả lời chủ yếu là không dạy. Đồng 
thời, khi được hỏi về việc nếu được kiến nghị dạy 
học theo các phương pháp nào thì rất nhiều câu trả 
lời mong muốn được học và phân tích ý nghĩa của 
từng chữ, những sự tích có liên quan,... Cho thấy, 
sinh viên chưa nắm được phương pháp dạy học 
này. Thực tế, trong quá trình dạy học, chúng tôi 
khảo sát một số lớp năm thứ 4 sau khi học xong 
môn văn tự ở khóa K50, K51, K52, K53, K54, có 
đến 50% sinh viên vẫn chưa biết cách phân tích 
các yếu tố cấu thành họ tên của chính mình. 
Kết quả khảo sát qua các câu hỏi và phỏng vấn 
chuyên sâu sự hiểu biết về chữ Hán của người học 
phản ánh một số vấn đề sau: 
+ Người học thường không có nhận thức đầy 
đủ về chữ Hán, nếu có thì khá mơ hồ, phần nhiều 
cho rằng chữ Hán khá thần bí và cảm giác sợ hãi. 
Không những thế, nhiều sinh viên còn có nhận 
thức lệch lạc về chữ Hán như viết chữ Hán như 
vẽ tranh, chữ Hán là chữ Tượng hình (chữ tượng 
hình chỉ chiếm 4%)..., giống như người mới tiếp 
xúc chữ Hán.
+ Coi chữ Hán như một ký hiệu và học thuộc 
bằng cách viết đi viết lại nhiều lần, thuộc rồi, một 
thời gian sau lại quên.
+ Hiện tượng thêm nét, thừa nét, thiếu nét, sai 
nét, sai chữ, nhầm  ... cấu tạo nên hầu hết các từ vựng 
trong tiếng Hán. Nói cách khác, để học tốt được 
chữ Hán, cần nắm được 675 bộ kiện cơ bản, hơn 
nữa những bộ kiện này khi cấu tạo nên chữ Hán 
không biểu thị ý nghĩa và âm thanh chính xác. Nếu 
đem khối thông tin này so với tiếng Việt thì nó gấp 
mấy chục lần. Hơn nữa, khối thông tin trong tiếng 
Việt có mối liên hệ về âm, số lượng ít, rất dễ nhớ, 
nhưng khối thông tin trong chữ Hán, số lượng khối 
nhiều, bản thân các khối thông tin này cũng có số 
lượng nét nhiều, giữa các nét không có mối liên hệ 
về âm, hình và nghĩa, nên bản thân các khối thông 
tin này cũng rất khó nhớ. Tổ hợp khối thông tin 
trong một chữ tiếng Việt thường là 2 khối, nhưng 
trong chữ Hán ít thì có 1, nhiều thì 7, như vậy tính 
về số lượng khối thông tin trong một chữ viết cũng 
nhiều nhiều gấp 2,3 lần trong tiếng Việt. 
 Qua phân tích ở trên đủ thấy chữ Hán khó học, 
khó nhớ như thế nào. Việc học được chữ Hán là 
không hề đơn giản. Việc giảm bớt gánh nặng nhớ 
cho người học là vô cùng cần thiết. Việc dạy học 
chữ Hán theo bộ kiện cũng chỉ là một phần giúp 
chúng ta có thể giảm gánh nặng ghi nhớ, hữu ích 
hơn trong quá trình dạy học.
2.4. Xuất phát từ những khó khăn của sinh 
viên khi học chữ Hán
Những khó khăn của sinh viên khi học chữ 
Hán tóm lại khoảng 7 vấn đề sau:
(1) Chữ Hán phong phú về số lượng, phức tạp 
về hình thể, cộng thêm hệ thống phiên âm La tinh 
là gánh nặng khá lớn cho sinh viên khi bắt đầu học 
chữ Hán.
Như trên đã trình bày, chữ Hán hiện nay có 
khoảng 30 nét viết, 675 bộ kiện cấu tạo nên 16339 
chữ Hán, số lượng nét trong một chữ nhiều, tổ hợp 
mỗi một chữ lại không có quy luật nhất định học 
chữ nào biết chữ ấy. Để tra được một chữ tiếng 
Anh, chúng ta chỉ cần căn cứ theo thứ tự a, b, c, 
nhưng trong tiếng Hán lại tra theo bộ, rồi dò tìm 
chữ, tìm được chữ rồi, dò tìm từ, tìm được từ rồi, 
mới biết được cách đọc của nó. Cách đọc hiện nay 
gọi là phiên âm. Đây là hệ thống ngôn ngữ ghi lại 
âm thanh giống như tiếng Việt. Nghe người Trung 
Quốc nói tiếng phổ thông, chúng ta đều có thể dùng 
hệ thống phiên âm này ghi lại được bằng phiên âm. 
Nhưng hệ thống phiên âm này tồn tại khá nhiều 
vấn đề, đặc biệt là từ đồng âm quá nhiều. Nếu chỉ 
để nghe, về cơ bản không có vấn đề gì vì có ngữ 
cảnh ngôn ngữ, nhưng nếu cần ghi chép bằng văn 
bản thì lại nảy sinh rất nhiều vấn đề không thể giải 
quyết được, điển hình là hiện tượng đồng âm khác 
hình, nên vẫn không thể thay thế chữ Hán. 
 (2) Mỗi chữ Hán là một âm đọc, đồng âm khác 
hình là hiện tượng phổ biến trong tiếng Hán.
Mỗi chữ Hán là một âm đọc, học chữ nào mới 
biết đọc chữ đó. Nhìn một chữ tiếng Việt khi đã 
học qua cách phát âm, chúng ta dễ dàng đọc được. 
Nhìn một chữ tiếng Anh, chúng ta có thể đọc tuy 
không chuẩn nhưng người bản địa có thể nghe 
hiểu được khá nhiều, nhưng một chữ Hán mà chưa 
học thì không thể đọc được. Khi gặp một chữ Hán 
mới chúng ta cũng không biết đọc như thế nào, chỉ 
có cách tra cứu, mà tra cứu cũng không hề dễ cũng 
phải có kiến thức nhất định rồi mới có thể tra cứu 
từ điển. Đủ thấy, việc học được cách đọc một chữ 
Hán mới cũng rất khó khăn. 
Theo kết quả thống kê 7000 chữ trong “Bảng 
chữ thông dụng trong tiếng Hán hiện đại” của Lý 
Yên và nhóm nghiên cứu, chữ hình thanh có tới 
5631, trong những chữ này có tới 1325 bộ kiện 
biểu âm. Để ghi lại âm trong chữ Hán, lại dùng 
12 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
rất nhiều bộ kiện để ghi lại, các bộ kiện lại chỉ ghi 
lại một âm tiết chung chung, chưa có thanh điệu, 
nên việc nhìn chữ để đoán âm là rất khó. Ví dụ: để 
ghi lại âm tiết “yi”, có khá nhiều chữ: 义(议),夷
(姨), 台(怡)... 
 (3) Các dạng nét viết trong chữ Hán nhiều, 
nhiều dạng nét khá giống nhau, tổ hợp các nét viết 
không có sự thống nhất trong các chữ viết.
Trương Tịnh Hiền (1998) thu thập 31 dạng nét 
viết, chia thành 6 nét cơ bản và 25 nét phái sinh, 
trong đó nhiều dạng nét viết khá giống nhau, sự 
khác biệt rất nhỏ, làm cho người học khó nhớ, dễ 
nhầm. Ví dụ hai trường hợp sau: 
- Giữa ba nét: “Ngang gập vòng móc” trong 
chữ Phong (风:nét thứ 2), “Ngang gập uốn móc” 
trong chữ Cửu (九: nét thứ 2), “Ngang gập vòng” 
trong chữ Đóa (朵: nét thứ 2).
- Giữa nét “ngang gập ngang phảy” trong chữ 
Cập (及: nét thứ 2) và “Ngang gập ngang gập 
móc” trong chữ Nãi (乃: nét thứ nhất). 
Như trên đã trình bày, mỗi chữ Hán là một 
cách tổ hợp, không có quy luật chung, học chữ nào 
biết chữ đó, không học không biết viết, không biết 
đọc, không biết ý nghĩa.
 (4) Khoảng cách và sự khác biệt giữa các nét 
không rõ ràng, hình thể chữ viết khá giống nhau
Nhiều chữ viết trong chữ Hán na ná giống 
nhau. Khảo sát bảng “Đại cương cấp độ từ vựng 
và chữ Hán trình độ tiếng Hán” ở bốn cấp độ A, 
B, C, D, cho thấy cấp độ A có 106 nhóm, cấp B: 
79 nhóm, cấp C: 35 nhóm, cấp D: 20 nhóm. Ví 
dụ chữ 八 (bát: số 8) và chữ 人 (nhân: người), 
sự khác biệt duy nhất là quan hệ giữa hai nét ở 
khoảng cách, nét phảy và nét mác tách biệt là chữ 
Bát, và hai nét này nói liền với nhau là chữ Nhân. 
Hay chữ 开 (khai: mở) và chữ井 (tỉnh: cái giếng) 
đều là bốn nét viết giống nhau: 2 ngang, 1 phảy 
1 sổ, nhưng nét ngang thứ nhất tiếp giáp với nét 
phảy và nét sổ là chữ “khai” (mở), nét ngang thứ 
nhất giao với nét phảy và nét sổ là chữ “tỉnh” (cái 
giếng). Những tiểu tiết này, chỉ cần bất cẩn một 
chút là viết sai.
 (5) Bộ kiện là yếu tố cấu thành cơ bản trong 
chữ Hán, số lượng bộ kiện quá nhiều, chức năng 
bộ kiện không có sự đồng nhất.
Bộ kiện được cấu thành từ các nét viết. Theo 
Hà Cửu Doanh thống kê có, 675 bộ kiện, trong đó 
khá nhiều bộ kiện gần giống nhau, ví dụ như giữa 
bộ miên (宀) và huyệt (穴), bộ sĩ (士) và thổ (土), 
bộ dĩ (已) và kỷ (己). Hơn nữa, nhiều bộ kiện khi 
đứng độc lập viết kiểu khác, khi kết hợp với bộ 
kiện khác cấu tạo nên chữ hợp thể lại viết kiểu 
khác như bộ thủ (扌) và chữ thủ (手), bộ tâm (忄) 
và chữ tâm (心). 
Theo kết quả nghiên cứu của Lý Yên và nhóm 
nghiên cứu, trong 5631 chữ hình thanh, có 246 
chữ có ý nghĩa khác nhau, ký hiệu biểu nghĩa cũng 
không đồng nhất. Ví dụ, với ý nghĩa liên quan đến 
ăn uống, những chữ “吃 (ăn), 嚼 (gặm, nhấm), 喝 
(uống) dùng bộ khẩu (口) để biểu ý, nhưng chữ 
“餐 (đồ ăn), 饮ẩm (uống)” lại dùng bộ thực (食,
饣) để biểu ý. Người học khó mà xác định được 
đâu là ký hiệu biểu âm, đâu là ký hiệu biểu ý.
(6) Chữ Hán là chữ ghi lại từ tố, việc sử dụng 
chữ Hán nào để nghi lại âm tiết cũng là vấn đề khó.
Mỗi chữ Hán là một từ tố. Ngoài việc đọc 
được, viết được, chữ Hán còn liên quan đến cách 
dùng chữ. Phân biệt, dùng đúng các chữ trong các 
hoàn cảnh ngôn ngữ cũng là một vấn đề khó cho 
sinh viên. Ví dụ: Cùng là chữ “duy”, đọc là “wéi”, 
nhưng chữ viết lại có ba chữ: “维, 惟, 唯”. Chữ 
“duy” trong các từ “duy trì, duy tu” chỉ có thể viết 
chữ 维: 维持, 维护, mà không thể viết thành chữ 
“惟” , nhưng chữ duy trong chữ “tư duy” có thể 
viết thành: “思维” hoặc “思惟”, chữ duy trong các 
từ “duy độc” (chỉ một), “duy khủng” (chỉ e, chỉ 
sợ) thì có thể viết là “惟独” và “惟恐”, cũng có 
thể viết thành “唯独” và “唯恐”, nhưng chữ “duy” 
trong từ “duy tâm, duy vật” thì chỉ có thể dùng chữ 
“唯”, chỉ có thể viết thành “唯心” và “唯物”.
13KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
Đây cũng là vấn đề rất khó đối với người Việt, 
mà chính các cụ ta xưa khi học cũng hay bị nhầm 
lẫn, mà điển hình là chữ “tác” (作) và chữ “tộ” 
(怍:xấu hổ, tủi thẹn, hoặc 胙:thịt cúng) vì các 
chữ này có cách viết gần giống nhau, âm đọc chữ 
Hán giống nhau đều là “zuò”. 
(7) Ý nghĩa chữ sơ khai của chữ và của từ đôi 
khi không có sự liên kết chặt chẽ về mặt ý nghĩa 
Chữ Hán ban đầu thường dùng để ghi lại nghĩa 
của chữ, hoặc nghĩa của từ tố, nhưng trong chữ 
Hán hiện đại (chữ giản thể), nghĩa của chữ vốn 
có trong nhiều từ bị ẩn đi, hoặc có nghĩa rất ít sử 
dụng. Khi các từ tố kết hợp với nhau thành từ, về 
mặt chữ chúng ta lại rất khó tìm lại được cầu nối 
về mặt ý nghĩa, nên dễ dùng sai, viết sai. Ví dụ 
cùng là chữ “Khắc”, tại sao trong từ “khắc khổ” 
(刻苦) lại dùng chữ “刻” mà từ “khắc phục” (克
服) lại dùng chữ “克”? Vì sao chữ “đề” trong từ 
“đề cương” lại viết thành “提纲”, mà lẽ ra phải 
chữ “đề” trong chữ “đề mục” (题目) mới đúng 
chứ? Theo lôgic phải viết thành “题纲” mới đúng.
3. KẾT LUẬN
Để nâng cao hiệu quả dạy học, giảng viên cần 
nhận thức đúng đắn về chữ Hán trong mối quan hệ 
tương quan với các ngôn ngữ ký âm khác. Cần có 
sự khảo cứu nghiêm túc, ứng dụng những phương 
pháp dạy học phù hợp với nội dung và đối tượng 
dạy học. 
Qua quá trình khảo cứu và thực nghiệm tại 
Trường Đại học Ngoại thương, chúng tôi đề xuất 
kiến nghị nên bổ khuyết sự thiếu hụt trong giáo 
trình, chú trọng đến nội dung và đối tượng dạy 
học, cần đi sâu khai thác phân tích chữ Hán theo 
quy luật cấu tạo chữ, tổ hợp lại các khối thông tin 
phù hợp với khả năng ghi nhớ tốt của con người 
bằng cách lấy bộ kiện làm trung tâm, coi trọng các 
bộ thủ truyền thống, các bộ kiện có tần suất sử 
dụng cao theo cả ba phương diện hình, âm, nghĩa, 
chủ yếu là việc phân tích hình thể chữ có sự lồng 
ghép ý nghĩa bộ kiện và âm đọc, bố trí thời lượng 
nhất định cho việc dạy chữ Hán, rèn viết chữ Hán 
trong giai đoạn đầu mới học chữ Hán, dạy học chữ 
Hán trong mối tương quan với từ và ngữ, cũng như 
đưa vào bối cảnh ngôn ngữ để sinh viên dễ nắm 
bắt nghĩa chữ, nghĩa từ và có thể sử dụng được 
ngay trong các bối cảnh ngôn ngữ nhất định, tăng 
khả năng thực hành cho sinh viên. Chú trọng việc 
dạy cho sinh viên phương pháp chiết tự, phương 
pháp tổ hợp các khối thông tin, khai thác tính chất 
biểu ý, kết hợp với văn hóa kết tinh trong chữ, để 
sinh viên có thể tự chiết tự, tăng khả năng ghi nhớ, 
dần hình thành cách kỹ năng phân tích chữ, tiến 
đến có thể tổng hợp và sáng tạo, đạt hiệu quả và 
mục tiêu dạy học./.
Chú thích:
1. Bộ kiện và bộ thủ: Thuật ngữ Bộ kiện là danh từ 
xuất hiện thời hiện đại. Năm 1965, Nghê Hải Thự trong bài 
“Thiên bàng và bộ kiện”, khái niệm bộ kiện chính thức được 
đề cập, sau này giới học thuật sử dụng nhiều. Song song với 
khái niệm bộ kiện, người ta còn sử dụng các thuật ngữ như 
“tự nguyên”, “tự tố”, “cấu kiện”, “tổ kiện”, “hình vị”, giới 
công nghệ thông tin cũng như giới học thuật, sử dụng các 
thuật ngữ này không có sự đồng nhất. Hiện nay, xu hướng 
sử dụng bộ kiện đang dần chiếm ưu thế chủ đạo (Phí Cẩm 
Xương, 1996). Bộ kiện cũng là khái niệm khá mới với người 
Việt Nam, người Việt Nam quen dùng khái niệm bộ thủ, đa 
phần được hiểu bộ thủ là bộ kiện, như “Bộ thủ/部首là thành 
phần cốt yếu của từ tiếng Hán, nó đóng vai trò gần như một 
“bộ chữ cái” trong tiếng Hán. Có tất cả 214 bộ thủ, hầu hết 
các chữ trong 214 bộ thủ đều là chữ độc thể tự, là những 
chữ không thể phân tích nhỏ ra được nữa, nếu phân tích ra, 
các thành phần đều vô nghĩa, vì vậy phải học thuộc bộ thủ” 
(
han-de-nhat.html). Cách hiểu như vậy không thật chính xác. 
Khái niệm bộ thủ được Hứa Thận đưa vào “Thuyết văn” lần 
đầu tiên, sau khi phân tích ngữ liệu chữ Hán, ông phân loại 
chữ Hán theo 504 bộ thủ, sau này “Tân Hoa tự điển” thu gọn 
lại thành 214 bộ thủ. Bộ thủ trong tiếng Hán được hiểu là 
một khái niệm dùng để sử dụng phân loại chữ Hán khi biên 
tập tự điển, từ điển tiện tra cứu theo bộ. Từ điển Hán Việt 
hiện đại giải thích: Tự điển, từ điển căn cứ vào kết cấu tự 
hình chữ Hán, lấy thiên bàng giống nhau về hình thể, sắp xếp 
theo thứ tự làm căn cứ tra chữ, những bộ mà được phân loại 
gọi là bộ thủ như nhân/, khẩu/口, ngôn/言, kim/金, mã/马... 
Như vậy, có thể hiểu bộ thủ có mặt ở hầu hết các chữ Hán, 
nhưng không phải bộ thủ cấu tạo nên hầu hết các chữ Hán, 
nó là những bộ kiện có tần suất cấu tạo chữ cao. Nói cách 
khác, bộ thủ là một bộ phận của bộ kiện, còn bộ kiện không 
phải là bộ thủ (Lê Quang Sáng, 2017). 
14 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
COMMENTS ON THE SCIENTIFIC BASIS FOR APPLYING THE STROKE
EXTRACTION METHOD IN CURRENT TEACHING CHINESE CHARACTERS
LE QUANG SANG
Abstract: Chinese characters are different from those of other languages, which are ideographic, 
difficult to learn, hard to remember, difficult to write, and easily to be forgotten by its complexity. 
However, the Chinese character curriculum nowadays is primarily similar to other language 
curriculums due to lack of understanding and anticipating this character value. Within the scope of 
this report, we would like to present some scientific basis for applying the stroke extraction, which 
allows lecturers to have an overview of the content of teaching and learning objects. This leads to 
appropriate teaching methods, reducing the burden on learners, overcoming some problems in current 
teaching Chinese characters and improving the quality of teaching.
Keywords: basic, stroke extraction, Chinese characters, teaching, method 
Received: 05/10/2018; Revised: 03/11/2018; Accepted: 20/12//2018
2. Số lượng nét viết chưa có sự thống nhất. Số lượng nét 
cơ bản không thống nhất: 5,6,7,8 nét, số lượng nét phái sinh 
chưa có sự thống nhất cũng vậy. Thế nên, hiện nay, nhiều 
bảng tên gọi các nét viết ở Trung Quốc có số lượng không 
đồng nhất: 28, 29, 31, 32, 34. Thời Tấn, Vị phu nhân trong 
“Bút trận đồ” (笔阵图), phân thành 7 nét, Trương Hoài Quán 
nhà Đường trong “Vĩnh tự bát pháp” chia thành 8 nét, Hồ 
Cửu Doanh (1999, tr.79) chia thành 5 nét cơ bản. Trương 
Tịnh Hiền (1998) thống kê có 31 nét viết, 6 nét cơ bản, 25 nét 
phái sinh (biến thể). Ở đây chúng tôi dùng con số trung bình.
3. Hà Cửu Doanh, Hồ Song Bảo, Trương Mãnh thống kê 
tất cả các chữ xuất hiện trong “Từ Hải” (辞海,1979) và 43 
chữ xuất hiện trong GB2312-80 mà “Từ Hải” không có, tổng 
cộng 16339 chữ, chia thành 675 bộ kiện. 
 Tài liệu tham khảo:
Nguyễn Đình Hiền (2017), “Kết quả khảo sát Bước đầu về 
tình hình viết sai, viết nhầm chữ Hán của Sinh viên Việt 
Nam”, Tạp chí Nghiên cứu nước ngoài, Tập 1, Số 1, 
tr.23-38.
Nguyễn Bảo Ngọc (2014), Khảo sát các lỗi thường gặp 
khi viết chữ Hán của sinh viên Khoa tiếng Trung Quốc 
trường Đại học Ngoại thương và các giải pháp khắc 
phục, Báo cáo đề tài cấp cơ sở, Đại học Ngoại thương. 
Hoàng Phê (chủ biên, 2009), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn 
ngữ học, NXB Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học Hà 
Nội - Đà Nẵng.
Lê Quang Sáng (2017), Bàn về thuật ngữ “chiết tự” trong 
tiếng Việt và cách dịch sang tiếng Hán, Kỷ yếu Hội thảo 
Quốc gia “Nghiên cứu liên ngành Ngôn ngữ và Giảng 
dạy Ngôn ngữ lần thứ III”, Huế, tr.70-80.
Lê Quang Sáng (2017), Phương pháp chiết tự và ứng dụng 
trong dạy học chữ Hán tại Đại học Ngoại thương, Đề tài 
cấp cơ sở.
Nguyễn Thị Thu Trang (2016), Nghiên cứu phương pháp 
giảng dạy chữ Hán trong giảng dạy tiếng Trung Quốc 
cho người Việt Nam, luận án tiến sĩ. 
Bloom B. S. (1956). Taxonomy of Educational Objectives, 
Handbook I: The Cognitive Domain. New York: David 
McKay Co Inc.
George A. Miller (1955), The Magical Number Seven, Plus or 
Minus Two Some Limits on Our Capacity for Processing 
Information, Psychological Review, Vol. 101, No. 2, 
pp.343-352. 
费锦昌(1998),“对外汉语教学的特点、难点及其对
策”,北京大学学报,第3期。
李燕、康加深、魏励、张书岩(1992),“现代汉语形
声字研究”,语言文字应用,第1期。
张静贤(1998),“现代汉字笔形论”,语言教学与研
究,第1期。
许慎撰, 徐铉校定(1963),说文解字,中华书局,北
京。
何九盈、胡双宝、张猛(1999),中国汉字文化大观,
北京大学出版社,北京。

File đính kèm:

  • pdfban_ve_co_so_khoa_hoc_cho_viec_ap_dung_phuong_phap_chiet_tu.pdf