Bản sắc người Nghệ - Nhìn từ dân ca Ví, Giặm

Bằng lý thuyết phương ngữ học, bản sắc văn hóa, biến đổi văn hóa, từ các yếu tố địa lý, lịch sử, tính

cách con người xứ Nghệ và phương ngữ Nghệ - Tĩnh với tư cách là một tiểu vùng văn hóa (cultural subregion), bài viết đã tìm hiểu sự thể hiện bản sắc văn hóa của con người xứ Nghệ ở một phương diện

sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của họ là dân ca Ví, Giặm. Từ một chiều ngược lại, bài viết sẽ thử nhìn nhận

vai trò của Ví, Giặm trong việc hình thành bản sắc mang tính giá trị và bản sắc được tạo lập từ cội

nguồn của con người xứ Nghệ và với sức mạnh lan tỏa của một loại hình nghệ thuật mang giá trị kết

tinh, Ví, Giặm đã hình thành bản sắc xuyên quốc gia - tại những nơi có người Nghệ định cư - trong thời

đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

pdf 14 trang kimcuc 9020
Bạn đang xem tài liệu "Bản sắc người Nghệ - Nhìn từ dân ca Ví, Giặm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản sắc người Nghệ - Nhìn từ dân ca Ví, Giặm

Bản sắc người Nghệ - Nhìn từ dân ca Ví, Giặm
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 4(29) - Thaùng 6/2015 
3 
Bản sắc người Nghệ - nhìn từ dân ca Ví, Giặm 
Nghe people identity – from a Vi, Giam folk songs insight 
PGS.TS. Trần Thị An 
Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam 
Assoc.Prof.,Ph.D. Tran Thi An 
Vietnam academy social sciences 
Tóm tắt 
Bằng lý thuyết phương ngữ học, bản sắc văn hóa, biến đổi văn hóa, từ các yếu tố địa lý, lịch sử, tính 
cách con người xứ Nghệ và phương ngữ Nghệ - Tĩnh với tư cách là một tiểu vùng văn hóa (cultural sub-
region), bài viết đã tìm hiểu sự thể hiện bản sắc văn hóa của con người xứ Nghệ ở một phương diện 
sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của họ là dân ca Ví, Giặm. Từ một chiều ngược lại, bài viết sẽ thử nhìn nhận 
vai trò của Ví, Giặm trong việc hình thành bản sắc mang tính giá trị và bản sắc được tạo lập từ cội 
nguồn của con người xứ Nghệ và với sức mạnh lan tỏa của một loại hình nghệ thuật mang giá trị kết 
tinh, Ví, Giặm đã hình thành bản sắc xuyên quốc gia - tại những nơi có người Nghệ định cư - trong thời 
đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. 
Từ khóa: bản sắc văn hóa, phương ngữ, dân ca Nghệ Tĩnh, Ví, Giặm 
Abstract 
Based on dialectology and the theories of cultural identity and culture change, considering geographical 
and historical factors as well as Nghe people’s shared personality traits and Nghe - Tinh dialect as a 
cultural sub-region, the article studies Nghe people’s expression of their cultural identity through one of 
their creation of arts known as Vi, Giam folk songs. In the inverse direction, the article strived to study 
the role of Vi, Giam in the establishment of Nghe people’s value-based identity and resources-based 
identity; and with its spreading power as a quintessential artform, Vi, Giam’s role in establishing a 
transnational identity in areas where Nghe people reside in the era of globalization and international 
integration. 
Keywords: cultural Identity, Dialect, Nghe Tinh folk songs, Vi, Giam 
I. LỜI MỞ 
Là nơi thể hiện một cách sâu sắc và 
sống động tâm hồn của con người sống 
trên mảnh đất xứ Nghệ, Ví, Giặm luôn là 
nơi gửi gắm tâm tình, nơi trút bầu tâm sự, 
nơi thể hiện tiếng lòng, nơi thể hiện hồn 
quê, nơi để được nói ra, để được lắng nghe, 
sẻ chia và đồng điệu của mỗi con người 
Nghệ; Là một biểu tượng của văn hóa xứ 
Nghệ, Ví, Giặm luôn thu hút được sự quan 
tâm của giới nghiên cứu quan tâm đến 
mảnh đất này; Là một thế giới nghệ thuật 
đặc sắc, Ví, Giặm bắc những nhịp cầu để 
nối các vùng văn hóa Việt Nam, nối văn 
hóa Việt Nam với các nền văn hóa trên thế 
giới. 
Vì thế, các công trình nghiên cứu về 
Ví, Giặm đã có nhiều nhưng nói bao nhiêu 
4 
vẫn là chưa đủ cho một hiện tượng văn hóa 
gắn với mọi mặt đời sống xã hội, đời sống 
tình cảm, đời sống vật chất, và đặc biệt là 
thể hiện một cách sinh động bản sắc con 
người xứ Nghệ. Chúng tôi, với một mong 
muốn ấp ủ được viết về làn điệu dân ca của 
quê hương, sẽ thử nhìn nhận nó từ việc thể 
hiện bản sắc người Nghệ để thấy sự gắn bó 
bền chặt và sâu nặng của thể loại dân ca 
này với mọi người Nghệ ở muôn nơi. 
Trong bài viết này, quan điểm nghiên 
cứu của chúng tôi là tôn trọng tính đa dạng 
của văn hóa, khẳng định thuyết tương đối 
văn hóa; các lý thuyết được vận dụng là 
văn hóa vùng, bản sắc văn hóa, biến đổi 
văn hóa và phương ngữ học; các phương 
pháp được sử dụng là phân tích văn bản, sử 
dụng tài liệu điền dã thứ cấp và so sánh 
loại hình. Trong khuôn khổ bài viết, phạm 
vi khảo sát của bài viết chỉ giới hạn trong 
những bài hát Ví, Giặm về tình yêu đôi lứa. 
1. Xứ Nghệ - Một tiểu vùng văn hóa 
1.1. Không gian địa lý và những 
điều kiện lịch sử hình thành vùng đất 
Nghệ Tĩnh 
Trong các nghiên cứu về vùng văn hóa 
ở Việt Nam, xứ Nghệ (Nghệ An-Hà Tĩnh) 
thường được coi là một tiểu vùng nằm 
trong vùng văn hóa Trung Bộ (Ngô Đức 
Thịnh, 1993; Đinh Gia Khánh và Cù Huy 
Cận, 1995 và các tác giả khác) và theo các 
tác giả này, các yếu tố cấu thành văn hóa 
vùng gồm: hoàn cảnh tự nhiên, nguồn gốc 
dân cư, điều kiện lịch sử, trình độ phát 
triển kinh tế - xã hội, giao lưu văn hóa1. Sự 
bất lợi thế về địa hình và khí hậu (mà ý 
kiến của Đặng Thai Mai có thể coi là tiêu 
biểu2) thường được coi là một nhân tố ảnh 
hưởng mạnh tới tính cách, khí chất con 
người Nghệ Tĩnh; tuy nhiên, đặc điểm của 
hoàn cảnh tự nhiên này có thể đúng với 
Quảng Trị, Quảng Bình và phần nào với 
Thanh Hóa. 
Từ phương diện lịch sử, các chứng 
tích khảo cổ học đã cho thấy sự liên tục 
lịch sử trên vùng đất xứ Nghệ thời tiền sử 
và sơ sử: sự xuất hiện sớm của con người 
và các nền văn hóa thời kỳ đá cũ với di chỉ 
Thẩm Òm (Quỳ Châu), các di chỉ thời văn 
hóa Hòa Bình (Quế Phong, Con Cuông, 
Tương Dương, Tân Kỳ, Quỳ Châu), các 
cồn sò, cồn điệp làm nên nền văn hóa 
Quỳnh Văn thời đá mới, di chỉ Làng Vạc 
với các di vật đồ đồng của thời đại Đông 
Sơn. Thư tịch Trung Quốc và truyền thuyết 
dân gian Việt Nam về thời Bắc thuộc đã tái 
hiện phần nào sự phát triển liên tục của lịch 
sử vùng đất Nghệ về các cuộc khởi nghĩa 
của các nữ tướng Hai Bà Trưng, về người 
anh hùng Mai Thúc Loan với cuộc khởi 
nghĩa 10 năm (713-722) mà các dấu tích về 
thành quách vẫn lưu giữ trên vùng đất Nam 
Đàn và quy mô của cuộc khởi nghĩa có tầm 
lan tỏa tới cả Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân. 
Một nét đặc biệt của lịch sử vùng đất 
này là, trong thời kỳ Đại Việt, xứ Nghệ 
một thời gian dài là vùng đất phên dậu mà 
ranh giới cuối cùng của nó hiện còn lưu ở 
tên gọi của núi Nam Giới (Thạch Hà, Hà 
Tĩnh) được coi là nơi phân định lãnh thổ 
của người Việt và người Chăm3. Điều này 
đã được chép trong một số thư tịch. Sách 
Đại Nam nhất thống chí chép: “Hoành Sơn 
phía nam huyện Kỳ Anh là chỗ phân địa 
giới giữa hai tỉnh Hà Tỉnh và Quảng Bình, 
một dải núi liên tiếp chắn ngang đến biển; 
phía đông có núi Đao, đường quan đi qua 
trên núi, xưa là chỗ phân địa giới giữa Giao 
Chỉ và Chiêm Thành”. Đại Nam nhất 
thống chí dẫn sách Việt sử ngoại kỷ chép 
rằng: “Hồi Giao Châu thuộc nhà Hán chúa 
Lâm Ấp là Phạm Văn xin với thái thú quận 
Nhật Nam là Chu Phồn lấy Hoành Sơn làm 
giới hạn”. Trong thời gian tồn tại của nước 
Lâm Ấp, người Chăm đã nhiều lần Bắc 
tiến vượt qua dãy Hoành Sơn, và như vậy 
là, ảnh hưởng qua lại của người Việt và 
người Chăm trên mảnh đất xứ Nghệ (dù 
lúc đó chưa có tên gọi này) là điều hoàn 
toàn đã xảy ra. Danh xưng Nghệ An được 
nhà Lý đặt lần đầu tiên vào năm 1030 với 
tên gọi mà tính địa phương, tính ngoại vi 
5 
của vùng đất trong con mắt của người cầm 
quyền đã hiện rõ: “Nghệ An châu trại”. 
Với tính chất là vùng biên viễn, xứ Nghệ 
cũng đã từng là nơi lưu đầy các tù nhân 
trong lịch sử. 
Về nguồn gốc dân cư xứ Nghệ, đã có 
một số công trình nghiên cứu. Nhà nghiên 
cứu người Pháp là Hippolyte Le Breton đã 
viết từ năm 1936 là: “Ở trên đỉnh của 
những cù lao hay bán đảo đó, những người 
thổ dân văn minh đầu tiên của xứ An Tĩnh 
cổ đã định cư, chủ yếu là người Chăm”4. 
Nguyễn Đổng Chi lại có một cách nhìn hơi 
khác, ông viết: “Nhân chủng Nghệ Tĩnh 
thời cổ rất phức tạp: Ở đây có hòn núi Bể, 
nhất danh là núi Nam Giới thuộc phủ 
Thạch Hà, thuở xưa là cái mốc ngăn đôi 
Việt Nam và Chàm. Miền Quỳ Châu, Cửa 
Rào hiện nay là quê hương của dân Mường 
mà ngày trước đã từng ở nhiều miền đồng 
bằng Nghệ Tịnh như chung quanh Hồng 
Lĩnh là một... Ngăn cách giữa Lào và Việt 
Nam còn có người Mọi ở rừng núi phía tây 
nam Hương Khê; Thái Đen và Mẹo hay 
Mèo ở rừng núi tây bắc Tương Dương 
cũng do đồng bằng lên mạn ngược. Đời 
Bắc thuộc, người Chăm nhiều phen ra cướp 
phá chiếm đóng. Đời Lê, Lý, Hà Tịnh là 
chỗ đày các tù tội miền Bắc vào. Đến đời 
Trần thì thổ dân ở đồng bằng Nghệ Tĩnh đã 
Việt Nam hóa hầu hết”5. Sự cộng cư, giao 
lưu và hòa huyết của người Việt, người 
Chăm và các tộc người Mường, Thái, 
H’môngtrong những bối cảnh đầy biến 
động của chính trị, xã hội đã hình thành 
nên những nét tính cách đặc biệt, nhiều 
phần trong đó là những đối cực, của con 
người trên mảnh đất xứ Nghệ. Và dù là 
“đến đời Trần, thổ dân ở đồng bằng Nghệ 
Tịnh đã Việt Nam hóa hầu hết” (như cách 
nói của Nguyễn Đổng Chi) nhưng thời gian 
đã chứng minh rằng, cái bản tính (nét tính 
cách gốc) được hình thành trong thời gian 
đã khá định hình và dường như khó đổi 
thay, ngay cả hàng mấy trăm năm sau. 
Như vậy, có thể thấy, nét đặc trưng 
của tính chất phên dậu, biên viễn, trại và 
những mối quan hệ qua lại khá phức tạp 
giữa ngoại vi với trung tâm, giữa người 
Việt và các dân tộc thiểu số thời đó, với 
người Chăm chính là những nhân tố tác 
động mạnh để hình thành nên những đặc 
điểm về tính cách của con người và đặc 
trưng văn hóa của vùng đất này. 
1.2. Con người Nghệ và thế ứng xử 
với bối cảnh địa - chính trị - xã hội của 
vùng biên viễn 
Tính cách người Nghệ, rõ ràng là, 
được hình thành bởi thế ứng xử của con 
người trong môi trường chính trị - lịch sử - 
xã hội của vùng đất này. Để vượt thoát 
được sự kỳ thị trung tâm và ngoại vi (mà là 
một ngoại vi khá đặc biệt, một ngoại vi 
muốn và bị khép kín bởi tính bản sắc), 
người Nghệ không có cách nào khác là 
vươn lên bằng chính sức lực và trí lực của 
mình. Sự cần cù trong lao động, sự tảo tần 
trong cuộc sống, sự mạnh mẽ trong ý chí 
sống, sự quyết tâm cao trong học hành và 
thi cử là những điều mà người Nghệ buộc 
phải lựa chọn trong bối cảnh xã hội khá 
khắc nghiệt của mình. Chính vì vậy, nhận 
xét về tính cách người Nghệ không hề dễ, 
và ta đã chứng kiến nhiều nhận xét trái 
chiều nhau. Đầu thế kỷ XIX, Bùi Dương 
Lịch viết: “Người Nghệ An khí chất phác, 
đôn hậu, tính tình từ tốn chậm chạp không 
sắc sảo, cho nên làm việc gì cũng cẩn thận, 
bền vững, ít khi bị xao động bởi những lợi 
hại trước mắt”6. Phó Toàn quyền Đông 
Dương những năm 30 của thế kỷ XX là 
Yves Charles Châtel thì viết rằng: người 
Nghệ là “những con người có khí phách, 
yêu văn học, hăng hái trong lao động và 
dũng cảm, nhẫn nại trên một vùng đất đầy 
cam go, thử thách. Sở dĩ những người dân 
ở đây có bản lĩnh đặc biệt như vậy, chắc 
chắn vì họ đã được tôi luyện qua một quá 
khứ lâu dài, và chỉ điều đó mới giải thích 
được cho người ta hiểu những đặc thù rất 
rõ rệt trong tính cách và tình cảm của họ”.7 
Tác giả Nghệ An phong thổ ký nhận xét con 
6 
người Nghệ Tĩnh: “Can đảm đến sơ suất, 
cần cù đến liều lĩnh, cương quyết đến khô 
khan và tằn tiện đến cá gỗ”.8 Đặng Thai 
Mai cho rằng: người Nghệ “tuy không bộc 
lộ một cách ồn ào hời hợt, nhưng lại có 
phần suy nghĩ, điềm tĩnh, sâu sắc và bền bỉ, 
cảm động đến thiết tha”.9 Người Nghệ nói 
chung bị cho là “gàn”, và Ngô Đức Thịnh 
cho rằng, cái gàn là “trạng thái tâm lý mà ở 
đó có sự khác biệt, xung đột giữa lý trí và 
hiện thực, bắt hiện thực phải chiều theo tư 
duy của lí trí, từ đó dẫn đến sự nhận thức 
và hành động có phần lệch chuẩn”.10 
Bởi có nhiều nhân tố hợp thành và 
tương tác với nhau trong nguồn gốc dân 
cư, tính cách người Nghệ mang nhiều nét 
phong phú và cả nhiều đối cực, do đó, khó 
có thể nhận xét một chiều. Vũ Ngọc Khánh 
(trong bài viết Tính cách người Nghệ) đã 
nhìn thấy trong mỗi người Nghệ có ba con 
người (một kẻ bình dân khố chạc - tiếng 
địa phương là khố dây, chỉ hạng người 
cùng cực, một con người chữ nghĩa văn 
chương, một chiến sĩ tiền phong cách 
mạng). Sự khái quát này có thể vẫn là chưa 
đầy đủ nhưng đã cho thấy sự không dễ 
dàng trong khái quát tính cách người Nghệ, 
và như vậy, lẩy một nét tính cách nào đó 
của người Nghệ để khái quát thành nét tính 
cách chính của dân Nghệ đều là khiên 
cưỡng. 
Một đặc điểm nổi trội của người Nghệ 
là tính cộng đồng cao, thể hiện ra ngoài 
bằng sự gắn kết cộng đồng khá chặt chẽ. 
Xuất phát từ bối cảnh đặc thù của mảnh đất 
xứ Nghệ, con người nơi đây cần phải dựa 
vào cộng đồng mới sống được và phát triển 
được. Hơn nữa, để chống lại sự kỳ thị của 
trung tâm, để tạo thành sức mạnh chung, 
cộng đồng người Nghệ luôn có xu hướng 
liên kết, gắn bó, thân thiết thậm chí có 
trường hợp trở thành cục bộ. Sự co cụm 
của người Nghệ còn có một lí do khác mà 
chúng tôi sẽ nói ở phần sau, đó là do họ sử 
dụng một phương ngữ hết sức đặc biệt, một 
thứ phương ngữ đã biến người Nghệ thành 
một cộng đồng có bản sắc khác lạ, nó thể 
hiện nhiều điều về con người và văn hóa 
của họ; và nó đã đi vào dân ca ví, giặm để 
làm nên một thế giới nghệ thuật đầy bản 
sắc. 
1.3. Phương ngữ Nghệ 
Trong lịch sử nghiên cứu phương ngữ 
học ở Việt Nam, cho đến nay, đã có nhiều 
công trình được công bố, trong số đó, công 
trình Tiếng Việt trên các miền đất nước 
(phương ngữ học)11 của giáo sư Hoàng Thị 
Châu là một công trình mang tính khái quát 
cao. Các trích dẫn về mặt lí thuyết của 
chúng tôi trong bài viết là dựa vào công 
trình này. Bên cạnh đó, các trích dẫn về 
mặt thống kê và phân tích định lượng yếu 
tố phương ngữ học trong dân ca Nghệ Tĩnh 
được chúng tôi tham khảo từ bài nghiên 
cứu Vai trò của phương ngôn trong dân ca 
hò, Ví, Giặm Xứ Nghệ của Phan Mậu 
Cảnh.12 
Theo Hoàng Thị Châu, “phương ngữ 
là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự 
biểu hiện của một ngôn ngữ toàn dân ở một 
địa phương cụ thể với những nét khác biệt 
của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với 
một phương ngữ khác” (sdd, tr.24). Theo 
đó, phương ngữ được đối chiếu với ngôn 
ngữ toàn dân (ngôn ngữ chung của toàn 
dân tộc), phân biệt với phương ngôn (là tục 
ngữ địa phương), đối sánh với thổ ngữ (là 
các biến thể của phương ngữ ở cấp độ xã, 
thôn) và với các phương ngữ khác. Là một 
hiện tượng lịch sử, phương ngữ ra đời và 
tồn tại cùng với các bộ lạc hoặc các công 
xã nông thôn, trong quá trình hình thành 
nhà nước, nó sẽ dần hợp nhất với ngôn ngữ 
toàn dân.
13
Căn cứ vào các phương diện ngữ âm, 
từ vựng và thanh điệu, Hoàng Thị Châu đã 
chia tiếng Việt thành 3 phương ngữ: Bắc, 
Trung, Nam. Trong đó, phương ngữ Trung 
được cho là có 5 thanh điệu nghiêng về sử 
dụng thanh điệu trầm được cho là xuất hiện 
sớm trong lịch sử (trong 6 thanh: huyền, 
sắc, nặng, hỏi, ngã, không, tùy từng vùng 
7 
mà có những sắc thái riêng. Ví dụ, phương 
ngữ Thanh Hóa không phân biệt thanh hỏi 
và thanh ngã, phương ngữ vùng Nghệ Tĩnh 
dấu ngã biến thành dấu nặng). Tuy nhiên, 
trên thực tế sử dụng, trong nhiều trường 
hợp, số thanh trong tiếng Nghệ ít hơn 5. Cụ 
thể: thanh bằng trong nhiều trường hợp 
nhập vào thanh không; thanh sắc nhập vào 
thanh hỏi, thanh ngã nhập vào thanh nặng, 
và trong những trường hợp này, chỉ còn lại 
3 thanh: không, hỏi, nặng14. Sự giảm thiểu 
thanh điệu này diễn ra ở những nơi có thổ 
âm nặng, và đặc biệt là nó được sử dụng 
trong hát Ví, Giặm như là một cách nhấn 
mạnh tính bản sắc của phương ngữ (chẳng 
hạn: Anh đển gian hoa thi hoa đạ nở), mà 
nếu hát nhẹ đi thì dường như “chất Nghệ” 
cũng bớt đậm đà. Biến thể của phương ngữ 
Nghệ Tĩnh và các biểu hiện sinh động của 
các thổ âm thuộc phương ngữ này được thể 
hiện trong dân ca Ví, Giặm sẽ cho ta thấy 
một cách sống động hơn chất Nghệ được 
thể hiện một cách đậm đặc như thế nào 
trong bộ phận dân ca này. 
Trong lý thuyết về phương ngữ, sử 
dụng phương pháp địa lý - ngôn ngữ học, 
các nhà nghiên cứu chỉ ra đồng ngữ tuyến 
(ranh giới chỉ phạm vi hoạt động về mặt 
địa lý của một phương ngữ) và vùng đồng 
ngữ (chỉ một phương ngữ ... với dân ca ví, giặm ở 
mọi thời điểm, ở mọi không gian. 
Cũng như một số loại hình dân ca các 
vùng miền khác (như quan họ, xoan), sau 
năm 1945, các hoạt động diễn xướng dân 
gian dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh không 
được tiếp tục như trước. Dù vậy, trong các 
xóm làng, các nghệ nhân vẫn hát, các bài 
dân ca vẫn được truyền lại cho con cháu. Ở 
Thanh Chương quê tôi, vào những năm của 
thập kỷ 70 của thế kỷ trước, tôi vẫn được 
nghe một vài cuộc hò đối đáp của các anh 
chị thanh niên trong làng. Đến thập kỷ 80 
thì diễn xướng đối đáp dân gian này mất 
hẳn. 
Tuy nhiên, trong lòng người Nghệ 
Tĩnh vẫn luôn có chỗ cho các bài dân ca. 
Theo “Báo cáo tổng quan về kiểm kê khoa 
học dân ca Ví - Giặm Nghệ Tĩnh” do Viện 
Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam 
thực hiện trong 2 năm 2012-2013, thì: tại 
tỉnh Nghệ An có 15 huyện/thị/thành phố, 
bao gồm 60 xã/phường/thị trấn với 168 
làng/thôn/xóm/khu dân cư và 60 câu lạc bộ 
đã và đang thực hành sinh hoạt dân ca Ví, 
Giặm; con số này ở tỉnh Hà Tĩnh là 12 
huyện/thị/thành phố bao gồm 38 xã/thị 
trấn/phường với 92 làng/thôn/xóm/khu dân 
cư và 15 câu lạc bộ. Và “cả 2 tỉnh hiện có 
2.696 cá nhân đại diện cho cộng đồng và 
câu lạc bộ (Nghệ An: 783 nam và 901 nữ; 
Hà Tĩnh: 545 nam và 503 nữ) ký tên vào 
bản đại diện cho cộng đồng, cam kết đồng 
thuận với chủ trương của Chính phủ Việt 
Nam về việc đề cử hồ sơ quốc gia, trình 
UNESCO xét duyệt đưa “Dân ca Ví - Giặm 
Nghệ Tĩnh” vào danh sách di sản văn hóa 
phi vật thể đại diện của nhân loại, năm 
2013”33. 
Cùng với các hoạt động diễn xướng 
dân gian, hoạt động sưu tầm và biểu diễn 
của các đoàn dân ca, việc cải biên lời cũ và 
sáng tác lời mới của các nhạc sĩ, các hoạt 
động sưu tầm của các nhà nghiên cứu, các 
hoạt động truyền dạy của các nghệ nhân 
trên sóng truyền hình và trong các trường 
học, các phong trào thi đua học hát dân ca 
trong trường học và trong các địa phương 
trên địa bản tỉnhđã thực sự làm sống lại 
kho tàng dân ca Ví, Giặm trong cuộc sống 
mới. Đặc biệt, hình thức kịch hát dân ca 
với việc sân khấu hóa hình thức diễn 
xướng dân gian truyền thống đã làm tốt 
việc nuôi sống diễn xướng dân gian trong 
một hình thức mới, bằng các phương tiện 
nghe nhìn đã giới thiệu một cách rộng rãi 
vốn cổ tới nhân dân34 để rồi kho tàng dân 
ca Ví, Giặm được hồi sinh trong cuộc sống 
người dân với một sức sống mới. Hoạt 
động của hơn 50 câu lạc bộ dân ca trên địa 
bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh hiện nay là 
kết quả của những nỗ lực tổng hợp của các 
nghệ sĩ chuyên nghiệp và nghệ nhân dân 
gian xuất phát từ một chủ trương đúng đắn 
của hai tỉnh về việc bảo tồn, khôi phục và 
phát huy vốn cổ trong đời sống đương 
đại.35 
Bên cạnh đó, việc sáng tác các ca khúc 
sử dụng chất liệu dân ca Ví, Giặm cũng là 
một cách thức thể hiện việc khơi nguồn và 
tiếp nối sức sống của dân ca cổ truyền 
trong bối cảnh mới. Trong các ca khúc này, 
phương ngữ Nghệ được sử dụng một cách 
tinh tế và uyển chuyển với trình độ nghệ 
thuật cao khiến cho chỉ cần lời ca được cất 
lên là người nghe được đắm chìm vào 
không gian văn hóa đặc sắc của xứ Nghệ. 
Vẫn là việc sử dụng tiếng địa phương (mô, 
rứa, ngái), sự pha trộn của các thanh điệu 
và việc thể hiện ngữ điệu đặc trưng giọng 
Nghệ, các bài hát về Nghệ Tĩnh tiếp nối 
mạch nguồn của dân ca Ví, Giặm đã 
chuyển tải hồn quê qua các ca khúc tới 
người nghe mà sóng thanh âm có sức lay 
động mãnh liệt tới các tâm hồn người xứ 
Nghệ. Có thể nói, không một người Nghệ 
Tĩnh nào không thuộc ít nhất một ca khúc 
về quê hương mình. Bên cạnh việc “ngôn 
14 
ngữ là một tập quán mà người ta mang theo 
mình và không thay đổi dễ dàng được” 
(Hoàng Thị Châu, tr. 223), âm nhạc của 
một vùng đất (dân ca, nhạc đương đại) có 
giá trị kết nối cao với một sức mạnh không 
thể ngờ tới, nó tạo nên một không gian văn 
hóa xuyên thời gian và xuyên không gian, 
đưa những người xa lại gần nhau trong một 
tinh thần tôn vinh bản sắc. Chính vì những 
giá trị đó, ngày 27/11/2014, dân ca Ví, 
Giặm Nghệ Tĩnh đã được UNESCO vinh 
danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện 
của nhân loại. 
Các nghiên cứu về “bản sắc văn hóa” 
trên thế giới với việc tranh luận rằng, nó là 
sản phẩm của lịch sử, của quá khứ hay là 
câu chuyện đương đại, là sản phẩm thực 
hay là sự tạo dựng có chủ ý theo những 
mục đích nào đó36 hoàn toàn có thể lấy 
trường hợp dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh để 
khảo sát. Như đã trình bày từ đầu bài viết 
đến đây, có thể thấy, việc chọn dân ca Ví, 
Giặm để thể hiện bản sắc văn hóa (ở trạng 
thái thăng hoa và chưng cất nhất) là lựa 
chọn của người Nghệ trong quá trình lịch 
sử, nó in dấu trong quá khứ và vẫn tiếp tục 
đến hôm nay, vừa là các giá trị ổn định vừa 
thay đổi theo những biến đổi của con người 
và bối cảnh (lịch sử, xã hội) đương đại. 
Bối cảnh mới đang đặt ra vấn đề bảo 
tồn các giá trị văn hóa truyền thống trong 
những điều kiện kinh tế, xã hội mới. Từ 
những mạch nguồn truyền thống và từ sự 
kết nối sâu xa của con người xứ Nghệ với 
không gian văn hóa của mình, từ tính bản 
sắc đậm đà trong thế giới tinh thần của 
người Nghệ, từ việc trao truyền gen văn hóa 
của người Nghệ tới các thế hệ con cháu, 
việc bảo tồn gần nhất với nguyên trạng là 
yêu cầu cấp thiết được đặt ra. Bảo tồn là để 
giữ gìn bản sắc văn hóa cho đất nước nhưng 
thực hiện sự bảo tồn và phát huy đó cần 
phải thông qua những con người cụ thể; nó 
phải vì đất nước nói chung, vì xứ Nghệ và 
con người Nghệ nói riêng. 
II. LỜI KẾT 
Trong lời Tựa sách An Tĩnh cổ lục, 
Phó toàn quyền Đông Dương Yves Charles 
Châtel viết: “Nghệ Tĩnh là một trong 
những miền đất của xứ Đông Dương có 
những bản sắc và đặc điểm rõ rệt hơn đâu 
hết”. “Tính bản sắc” và “đặc điểm rõ rệt” 
này có thể cảm nhận một cách dễ dàng nhất 
qua biểu tượng chưng cất của văn hóa xứ 
Nghệ là dân ca Ví, Giặm với tư cách là một 
căn cước văn hóa của người Nghệ như ta 
đã và đang thấy. Hơn nữa, là một kho tàng 
diễn xướng-dân ca có giá trị âm nhạc cao, 
là sản phẩm của những không gian diễn 
xướng đặc thù của một vùng quê có tính 
kết nối và lan tỏa nội vùng mạnh mẽ khiến 
cho nó có sức sống bền bỉ vượt thời gian, 
dân ca Ví, Giặm đang từ xu hướng hướng 
tâm một cách khả bảo thủ để lan tỏa ra các 
cộng đồng khác trong nền văn hóa Việt 
Nam cũng như các nền văn hóa khác trên 
thế giới. Trải biết bao dâu bể, Ví, Giặm đã, 
đang và sẽ sống một đời sống mạnh mẽ 
trong tâm hồn người Nghệ, trong không 
gian rộng lớn toàn cầu nơi những người 
Nghệ đang sống, và như vậy, nó mang sức 
sống Việt Nam tỏa rạng muôn nơi. 
Cũng như người của biết bao miền quê 
khác, tôi yêu quê hương tôi bằng một một 
tình yêu sâu nặng. Trong tình yêu đó, với 
mọi người Nghệ, tiếng Nghệ như là một 
biểu tượng của tất cả sự gian khổ, nhọc 
nhằn, của dịu ngọt và đằm thắm, của bình 
yên và giông bão gắn kết người Nghệ 
thành một cộng đồng đầy thân thương; và 
Ví, Giặm như một thứ hồn cốt của quê 
hương mà tôi tin, tất cả mọi người Nghệ 
đều từ đó để “lớn nổi thành người”. 
15 
Chú thích: 
1
 Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng 
văn hóa Việt Nam, Nxb. Trẻ, tr.64 
2
 Về mặt phong thổ, xứ Nghệ "xưa nay vẫn để lại 
trong tâm não của nhiều người ấn tượng một khu 
vực không hề được tạo vật cưu đương. Mấy mảnh 
đồng bằng hẹp như bị thắt riết vào bao nhiêu thung 
lũng, giữa những dãy núi chập chùng. Đất đai phần 
lớn chả có bao nhiêu màu mỡ. Nhiều nơi chỉ là đồng 
chua nước mặn. Cảnh vật quanh năm, nếu không 
nói là cằn cỗi, thì cũng không có gì là thi vị. Một 
mùa xuân nghèo màu sắc, hiếm thanh âm. Hè đến là 
nắng với gió. Những đợt "nam cào" làm cho nứt đất 
nẻ đồng, cạn cả khe suối, khô róc cả giếng, ao, đầm 
hồ. Bụi tỏa mù trời, đầu cả đường, lùa vào tận nhà 
ở, phủ lên cả đồ đạc. Gió vồ vập làng mạc, gió rung 
chuyển cả núi rừng. Nắng với gió là hai nguyên tố 
ngự trị. Tiếp theo đó là mùa thu với mưa với lụt. 
Rồi đến mùa đông ủ dột, lạnh lẽo, tiêu điều" (Đặng 
Thai Mai (1960), Văn thơ Phan Bội Châu, Nxb. 
Văn hóa, Hà Nội, (in lần thứ 2), tr. 34-35) 
3
 Bùi Dương Lịch viết: “Núi Nam Giới trên bờ biển 
xã Dương Luật, huyện Thạch Hà. Ngày trước, phía 
Nam nước ta giáp giới nước Chiêm Thành, nên đặt 
tên là núi Nam Giới”. (Nghệ An ký, Nguyễn Thị 
Thảo dịch và chú, Nxb. KHXH, H., 1993, tr.155). 
4
 An Tĩnh cổ lục, Bản dịch của Nguyễn Đình Khang 
và Nguyễn Văn Phú; phần hiệu đính của Chương 
Thâu và Phan Trọng Báu, Nxb. Nghệ An và Trung 
tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005, tr. 20 
5
 Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), 
Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập I, Nxb. Sử học, H., tr.23 
6
 Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nguyễn Thị Thảo 
dịch, Bạch Hào hiệu đính, Nxb. KHXH., H., 1993, 
tr.211 
7 
Lời Tựa cuốn An Tĩnh cổ lục, Sdd., tr.10 
8
 Dẫn theo Lê Văn Hảo (1963), Vài nét về sinh hoạt 
của hát giặm và hát ví - dân ca Nghệ Tĩnh, Tạp chí 
Đại học, Sài Gòn, số 34 
9
 Đặng Thai Mai (1960), Văn thơ Phan Bội Châu, 
sđd, tr. 40 
10
 Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng & phân vùng 
văn hóa Việt Nam, Nxb. Trẻ, TpHCM, tr.189 
11
 Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền 
đất nước (phương ngữ học), Nxb. KHXH., H. 
12
 Phan Mậu Cảnh (2010), Vai trò của phương ngôn 
trong dân ca hò, ví, giặm Xứ Nghệ, Kỷ yếu Hội thảo 
Khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị hò, ví, 
giặm xứ Nghệ, Tp Vinh, 2011 
13
 Karl Marx đã nói rằng: “Thổ ngữ là sản phẩm của 
công xã, cũng như nếu xét theo một quan điểm đó, 
nó là bản thân sự tồn tại của công xã: là công xã tự 
biểu hiện” (dẫn theo Hoàng Thị Châu, tr. 230). 
14
 Hoàng Trọng Canh trong bài viết Phương ngữ Nghệ 
Tĩnh với đặc trưng của dân ca Xứ Nghệ (2014) đã 
phân tích thang âm phức tạp dẫn đến tính “lơ lớ”, 
“trọ trẹ” trong phát âm của người Nghệ 
15
 Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), 
Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập 1, Nxb. Sử học, H. 
16
 Theo thống kê của Phan Mậu Cảnh, có 20% số bài 
hát ví sử dụng tiếng Nghệ, và 100% bài hát dặm sử 
dụng tiếng Nghệ. 
17 
Nguồn: 
social-report-2010.pdf 
18
 Website: www.CESifo-group.org/wp 
19
 Nguyễn Chung Anh (1958), Hát ví Nghệ Tĩnh, Nxb. 
Văn Sử Địa, H., tr.40 
20
 Hoàng Trọng Canh (2014), Phương ngữ Nghệ Tĩnh 
với đặc trưng của dân ca Xứ Nghệ, Nguồn: Báo Hà 
Tĩnh online 
21
 Bùi Dương Lịch, sdd, tr. 214 
22
 Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), 
Hát giặm Nghệ Tĩnh, sdd 
23
 Stephen Samuel James (2011), Những người London 
gốc Việt: Các bản sắc xuyên quốc gia qua những liên 
kết cộng đồng (Vietnamese Londoners: Transnational 
Identities Through Community Networks) 
24
 Nguyễn Phương Châm (1998), Tính chất bác học trng 
ca dao xứ Nghệ, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3. 
25
 Ninh Viết Giao (1961), Hát phường vải, Nxb Văn 
hóa & Viện Văn học, tr.27 
26
 Ninh Viết Giao (1961), Hát phường vải, Nxb Văn 
hóa & Viện Văn học, tr.49 
27
 Lê Văn Hảo (1963), Vài nét về sinh hoạt của hát 
giặm và hát ví - dân ca Nghệ Tĩnh, Đại học, 
Sài Gòn, số 34 
28
 Thái Kim Đỉnh (1995), Tản mạn về hát giặm, 
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, H., 1995 
29
 Lê Văn Hảo (1963), bdd 
30
 Nguyễn Chung Anh (1958), sdd, tr.42 
31
 Hỏi (Sĩ Đường): Một là tương lạt muối, Hai là 
tương xấu đỗ nành, Ba là Tương vắn (ngắn) múi 
khăn xanh, Đường đại lộ thông hành, Không chộ 
Tương lai vãng, Nỏ chộ nàng lai vãng. 
Đáp (Di Tương): Tương không hề lạt muối, Tương 
không xấu đỗ nành, Tương cũng không vắn múi 
khăn xanh, Đường đại lộ thông hành, Tương đi 
ngày ba bận, Tương đạp giữa mặt đường ba bận. 
32
 Tôi vẫn nhớ như in cảm giác bị shock khi nghe cuộc 
hò đối đáp vào một đêm trăng mùa hè cách đây hơn 
35 năm quê tôi (Ngọc Sơn, Thanh Chương). Trong 
cuộc hò đối đáp đó, khi bị nhóm các chàng trai trêu 
chọc hơi ác ý, các cô gái lập tức đáp lại: “Hò chi hò 
dại hò thàm, Bẻ que truồng lợn chống hàm cha mi 
lên” khiến cho cuộc hò đối đáp lặng đi. Xin chú ý, 
người Thanh Chương phát âm từ “chuồng lợn” 
thành chữ “truồng lợn”. 
33
 Nguồn:  
34
 Việc ra đời thể loại kịch hát được chuyển thể từ 
những làn điệu ví, giặm được bắt đầu với vở 
“Không phải tôi”(1970) và nhiều vở diễn như: “Cô 
gái sông Lam”; “Lời Người, lời của nước non” đã 
đánh dấu thành công của Đoàn Dân ca Nghệ Tĩnh. 
16 
35 
Nhiều năm xa quê, tôi cũng không ngờ xã Ngọc Sơn 
(huyện Thanh Chương, Nghệ An) hiện đã có một 
câu lạc bộ Ví, Giặm với hơn 40 thành viên mà từ 
chủ nhiệm, người viết lời và dàn dựng các điệu hát 
đến các thành viên đều là người họ hàng quen biết. 
36
 Fred Dervin (2011), Bản sắc văn hóa, tính đại diện 
và những vấn đề khác (Cultural identity, 
representation and Othering), Nguồn: 
Jean-François Bayart (2005), Những ảo tưởng về 
bản sắc văn hóa (The Illusion of Cultural Identity), 
University Of Chicago Press. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tài liệu tiếng Việt 
1. Nguyễn Chung Anh (1958), Hát ví Nghệ 
Tĩnh, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, tr.40 
2. Hippolyte le Breton (1936), An Tĩnh cổ lục, 
Tập san “Đô thành hiếu cổ” xuất bản, Bản 
dịch của Nguyễn Đình Khang và Nguyễn 
Văn Phú; phần hiệu đính của Chương Thâu 
và Phan Trọng Báu, Nxb. Nghệ An và 
Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 
2005 
3. Hoàng Trọng Canh (2014), Phương ngữ 
Nghệ Tĩnh với đặc trưng của dân ca Xứ 
Nghệ, Nguồn: Báo Hà Tĩnh online 
4. Phan Mậu Cảnh (2010), Vai trò của phương 
ngôn trong dân ca hò, ví, giặm Xứ Nghệ, Kỷ 
yếu Hội thảo Khoa học Bảo tồn và phát huy 
các giá trị hò, ví, giặm xứ Nghệ, Tp Vinh, 
2011 
5. Nguyễn Phương Châm (1998), Tính chất 
bác học trng ca dao xứ Nghệ, Tạp chí Văn 
hóa dân gian, Hà Nội, số 3. 
6. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các 
miền đất nước (phương ngữ học), Nxb. 
KHXH., Hà Nội. 
7. Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), 
Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập 1&2, Nxb. Sử 
học, Hà Nội. 
8. Thái Kim Đỉnh (1995), Tản mạn về hát 
giặm, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội. 
9. Ninh Viết Giao (1961), Hát phường vải, 
Nxb Văn hoá & Viện Văn học, Hà Nội. 
10. Lê Văn Hảo (1963), Vài nét về sinh hoạt 
của hát giặm và hát ví - dân ca Nghệ Tĩnh, 
Tạp chí Đại học, Sài Gòn, số 34 
11. Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nguyễn Thị 
Thảo dịch, Bạch Hào hiệu đính, Nxb. 
KHXH., H., 1993, tr.211 
12. Đặng Thai Mai (1960), Văn thơ Phan Bội 
Châu, In lần thứ 2, Nxb. Văn hóa, Hà Nội. 
13. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng & 
phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, 
Tp.HCM 
Tài liệu tiếng nước ngoài 
1. The Ministry of Social Development (2010), 
The Social Report, Source: 
ts/the-social-report-2010.pdf 
2. Oliver Falck, Alfred Lameli, Stephan Heblich, 
Jens Suedekum (2010), Dialect, Cultural 
Identity and Economic Exchange, Website: 
www.CESifo-group.org/wp 
3. Stephen Samuel James (2011), Vietnamese 
Londoners: Transnational Identities Through 
Community Networks, Goldsmiths College, 
University of London 
4. Fred Dervin (2011), Cultural identity, 
representation and Othering, Source: 
ct.pdf 
5. Jean-François Bayart (2005), The Illusion of 
Cultural Identity), University Of Chicago 
Press. 
Akhil Gupta and James Ferguson (1992), 
“Beyond "Culture": Spsace, Identity, and the 
Politics of Difference”, Source: Cultural 
Anthropology, Vol. 7, No. 1, Space, Identity, 
and the Politics of Difference, (Feb., 1992), 
pp. 6-23 
Ngày nhận bài: 19/5/2015 Biên tập xong: 20/6/2015 Duyệt đăng: 25/6/2015 

File đính kèm:

  • pdfban_sac_nguoi_nghe_nhin_tu_dan_ca_vi_giam.pdf