Bản sắc người Nghệ - Nhìn từ dân ca Ví, Giặm
Bằng lý thuyết phương ngữ học, bản sắc văn hóa, biến đổi văn hóa, từ các yếu tố địa lý, lịch sử, tính
cách con người xứ Nghệ và phương ngữ Nghệ - Tĩnh với tư cách là một tiểu vùng văn hóa (cultural subregion), bài viết đã tìm hiểu sự thể hiện bản sắc văn hóa của con người xứ Nghệ ở một phương diện
sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của họ là dân ca Ví, Giặm. Từ một chiều ngược lại, bài viết sẽ thử nhìn nhận
vai trò của Ví, Giặm trong việc hình thành bản sắc mang tính giá trị và bản sắc được tạo lập từ cội
nguồn của con người xứ Nghệ và với sức mạnh lan tỏa của một loại hình nghệ thuật mang giá trị kết
tinh, Ví, Giặm đã hình thành bản sắc xuyên quốc gia - tại những nơi có người Nghệ định cư - trong thời
đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản sắc người Nghệ - Nhìn từ dân ca Ví, Giặm
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 4(29) - Thaùng 6/2015 3 Bản sắc người Nghệ - nhìn từ dân ca Ví, Giặm Nghe people identity – from a Vi, Giam folk songs insight PGS.TS. Trần Thị An Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam Assoc.Prof.,Ph.D. Tran Thi An Vietnam academy social sciences Tóm tắt Bằng lý thuyết phương ngữ học, bản sắc văn hóa, biến đổi văn hóa, từ các yếu tố địa lý, lịch sử, tính cách con người xứ Nghệ và phương ngữ Nghệ - Tĩnh với tư cách là một tiểu vùng văn hóa (cultural sub- region), bài viết đã tìm hiểu sự thể hiện bản sắc văn hóa của con người xứ Nghệ ở một phương diện sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của họ là dân ca Ví, Giặm. Từ một chiều ngược lại, bài viết sẽ thử nhìn nhận vai trò của Ví, Giặm trong việc hình thành bản sắc mang tính giá trị và bản sắc được tạo lập từ cội nguồn của con người xứ Nghệ và với sức mạnh lan tỏa của một loại hình nghệ thuật mang giá trị kết tinh, Ví, Giặm đã hình thành bản sắc xuyên quốc gia - tại những nơi có người Nghệ định cư - trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Từ khóa: bản sắc văn hóa, phương ngữ, dân ca Nghệ Tĩnh, Ví, Giặm Abstract Based on dialectology and the theories of cultural identity and culture change, considering geographical and historical factors as well as Nghe people’s shared personality traits and Nghe - Tinh dialect as a cultural sub-region, the article studies Nghe people’s expression of their cultural identity through one of their creation of arts known as Vi, Giam folk songs. In the inverse direction, the article strived to study the role of Vi, Giam in the establishment of Nghe people’s value-based identity and resources-based identity; and with its spreading power as a quintessential artform, Vi, Giam’s role in establishing a transnational identity in areas where Nghe people reside in the era of globalization and international integration. Keywords: cultural Identity, Dialect, Nghe Tinh folk songs, Vi, Giam I. LỜI MỞ Là nơi thể hiện một cách sâu sắc và sống động tâm hồn của con người sống trên mảnh đất xứ Nghệ, Ví, Giặm luôn là nơi gửi gắm tâm tình, nơi trút bầu tâm sự, nơi thể hiện tiếng lòng, nơi thể hiện hồn quê, nơi để được nói ra, để được lắng nghe, sẻ chia và đồng điệu của mỗi con người Nghệ; Là một biểu tượng của văn hóa xứ Nghệ, Ví, Giặm luôn thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu quan tâm đến mảnh đất này; Là một thế giới nghệ thuật đặc sắc, Ví, Giặm bắc những nhịp cầu để nối các vùng văn hóa Việt Nam, nối văn hóa Việt Nam với các nền văn hóa trên thế giới. Vì thế, các công trình nghiên cứu về Ví, Giặm đã có nhiều nhưng nói bao nhiêu 4 vẫn là chưa đủ cho một hiện tượng văn hóa gắn với mọi mặt đời sống xã hội, đời sống tình cảm, đời sống vật chất, và đặc biệt là thể hiện một cách sinh động bản sắc con người xứ Nghệ. Chúng tôi, với một mong muốn ấp ủ được viết về làn điệu dân ca của quê hương, sẽ thử nhìn nhận nó từ việc thể hiện bản sắc người Nghệ để thấy sự gắn bó bền chặt và sâu nặng của thể loại dân ca này với mọi người Nghệ ở muôn nơi. Trong bài viết này, quan điểm nghiên cứu của chúng tôi là tôn trọng tính đa dạng của văn hóa, khẳng định thuyết tương đối văn hóa; các lý thuyết được vận dụng là văn hóa vùng, bản sắc văn hóa, biến đổi văn hóa và phương ngữ học; các phương pháp được sử dụng là phân tích văn bản, sử dụng tài liệu điền dã thứ cấp và so sánh loại hình. Trong khuôn khổ bài viết, phạm vi khảo sát của bài viết chỉ giới hạn trong những bài hát Ví, Giặm về tình yêu đôi lứa. 1. Xứ Nghệ - Một tiểu vùng văn hóa 1.1. Không gian địa lý và những điều kiện lịch sử hình thành vùng đất Nghệ Tĩnh Trong các nghiên cứu về vùng văn hóa ở Việt Nam, xứ Nghệ (Nghệ An-Hà Tĩnh) thường được coi là một tiểu vùng nằm trong vùng văn hóa Trung Bộ (Ngô Đức Thịnh, 1993; Đinh Gia Khánh và Cù Huy Cận, 1995 và các tác giả khác) và theo các tác giả này, các yếu tố cấu thành văn hóa vùng gồm: hoàn cảnh tự nhiên, nguồn gốc dân cư, điều kiện lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu văn hóa1. Sự bất lợi thế về địa hình và khí hậu (mà ý kiến của Đặng Thai Mai có thể coi là tiêu biểu2) thường được coi là một nhân tố ảnh hưởng mạnh tới tính cách, khí chất con người Nghệ Tĩnh; tuy nhiên, đặc điểm của hoàn cảnh tự nhiên này có thể đúng với Quảng Trị, Quảng Bình và phần nào với Thanh Hóa. Từ phương diện lịch sử, các chứng tích khảo cổ học đã cho thấy sự liên tục lịch sử trên vùng đất xứ Nghệ thời tiền sử và sơ sử: sự xuất hiện sớm của con người và các nền văn hóa thời kỳ đá cũ với di chỉ Thẩm Òm (Quỳ Châu), các di chỉ thời văn hóa Hòa Bình (Quế Phong, Con Cuông, Tương Dương, Tân Kỳ, Quỳ Châu), các cồn sò, cồn điệp làm nên nền văn hóa Quỳnh Văn thời đá mới, di chỉ Làng Vạc với các di vật đồ đồng của thời đại Đông Sơn. Thư tịch Trung Quốc và truyền thuyết dân gian Việt Nam về thời Bắc thuộc đã tái hiện phần nào sự phát triển liên tục của lịch sử vùng đất Nghệ về các cuộc khởi nghĩa của các nữ tướng Hai Bà Trưng, về người anh hùng Mai Thúc Loan với cuộc khởi nghĩa 10 năm (713-722) mà các dấu tích về thành quách vẫn lưu giữ trên vùng đất Nam Đàn và quy mô của cuộc khởi nghĩa có tầm lan tỏa tới cả Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân. Một nét đặc biệt của lịch sử vùng đất này là, trong thời kỳ Đại Việt, xứ Nghệ một thời gian dài là vùng đất phên dậu mà ranh giới cuối cùng của nó hiện còn lưu ở tên gọi của núi Nam Giới (Thạch Hà, Hà Tĩnh) được coi là nơi phân định lãnh thổ của người Việt và người Chăm3. Điều này đã được chép trong một số thư tịch. Sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Hoành Sơn phía nam huyện Kỳ Anh là chỗ phân địa giới giữa hai tỉnh Hà Tỉnh và Quảng Bình, một dải núi liên tiếp chắn ngang đến biển; phía đông có núi Đao, đường quan đi qua trên núi, xưa là chỗ phân địa giới giữa Giao Chỉ và Chiêm Thành”. Đại Nam nhất thống chí dẫn sách Việt sử ngoại kỷ chép rằng: “Hồi Giao Châu thuộc nhà Hán chúa Lâm Ấp là Phạm Văn xin với thái thú quận Nhật Nam là Chu Phồn lấy Hoành Sơn làm giới hạn”. Trong thời gian tồn tại của nước Lâm Ấp, người Chăm đã nhiều lần Bắc tiến vượt qua dãy Hoành Sơn, và như vậy là, ảnh hưởng qua lại của người Việt và người Chăm trên mảnh đất xứ Nghệ (dù lúc đó chưa có tên gọi này) là điều hoàn toàn đã xảy ra. Danh xưng Nghệ An được nhà Lý đặt lần đầu tiên vào năm 1030 với tên gọi mà tính địa phương, tính ngoại vi 5 của vùng đất trong con mắt của người cầm quyền đã hiện rõ: “Nghệ An châu trại”. Với tính chất là vùng biên viễn, xứ Nghệ cũng đã từng là nơi lưu đầy các tù nhân trong lịch sử. Về nguồn gốc dân cư xứ Nghệ, đã có một số công trình nghiên cứu. Nhà nghiên cứu người Pháp là Hippolyte Le Breton đã viết từ năm 1936 là: “Ở trên đỉnh của những cù lao hay bán đảo đó, những người thổ dân văn minh đầu tiên của xứ An Tĩnh cổ đã định cư, chủ yếu là người Chăm”4. Nguyễn Đổng Chi lại có một cách nhìn hơi khác, ông viết: “Nhân chủng Nghệ Tĩnh thời cổ rất phức tạp: Ở đây có hòn núi Bể, nhất danh là núi Nam Giới thuộc phủ Thạch Hà, thuở xưa là cái mốc ngăn đôi Việt Nam và Chàm. Miền Quỳ Châu, Cửa Rào hiện nay là quê hương của dân Mường mà ngày trước đã từng ở nhiều miền đồng bằng Nghệ Tịnh như chung quanh Hồng Lĩnh là một... Ngăn cách giữa Lào và Việt Nam còn có người Mọi ở rừng núi phía tây nam Hương Khê; Thái Đen và Mẹo hay Mèo ở rừng núi tây bắc Tương Dương cũng do đồng bằng lên mạn ngược. Đời Bắc thuộc, người Chăm nhiều phen ra cướp phá chiếm đóng. Đời Lê, Lý, Hà Tịnh là chỗ đày các tù tội miền Bắc vào. Đến đời Trần thì thổ dân ở đồng bằng Nghệ Tĩnh đã Việt Nam hóa hầu hết”5. Sự cộng cư, giao lưu và hòa huyết của người Việt, người Chăm và các tộc người Mường, Thái, H’môngtrong những bối cảnh đầy biến động của chính trị, xã hội đã hình thành nên những nét tính cách đặc biệt, nhiều phần trong đó là những đối cực, của con người trên mảnh đất xứ Nghệ. Và dù là “đến đời Trần, thổ dân ở đồng bằng Nghệ Tịnh đã Việt Nam hóa hầu hết” (như cách nói của Nguyễn Đổng Chi) nhưng thời gian đã chứng minh rằng, cái bản tính (nét tính cách gốc) được hình thành trong thời gian đã khá định hình và dường như khó đổi thay, ngay cả hàng mấy trăm năm sau. Như vậy, có thể thấy, nét đặc trưng của tính chất phên dậu, biên viễn, trại và những mối quan hệ qua lại khá phức tạp giữa ngoại vi với trung tâm, giữa người Việt và các dân tộc thiểu số thời đó, với người Chăm chính là những nhân tố tác động mạnh để hình thành nên những đặc điểm về tính cách của con người và đặc trưng văn hóa của vùng đất này. 1.2. Con người Nghệ và thế ứng xử với bối cảnh địa - chính trị - xã hội của vùng biên viễn Tính cách người Nghệ, rõ ràng là, được hình thành bởi thế ứng xử của con người trong môi trường chính trị - lịch sử - xã hội của vùng đất này. Để vượt thoát được sự kỳ thị trung tâm và ngoại vi (mà là một ngoại vi khá đặc biệt, một ngoại vi muốn và bị khép kín bởi tính bản sắc), người Nghệ không có cách nào khác là vươn lên bằng chính sức lực và trí lực của mình. Sự cần cù trong lao động, sự tảo tần trong cuộc sống, sự mạnh mẽ trong ý chí sống, sự quyết tâm cao trong học hành và thi cử là những điều mà người Nghệ buộc phải lựa chọn trong bối cảnh xã hội khá khắc nghiệt của mình. Chính vì vậy, nhận xét về tính cách người Nghệ không hề dễ, và ta đã chứng kiến nhiều nhận xét trái chiều nhau. Đầu thế kỷ XIX, Bùi Dương Lịch viết: “Người Nghệ An khí chất phác, đôn hậu, tính tình từ tốn chậm chạp không sắc sảo, cho nên làm việc gì cũng cẩn thận, bền vững, ít khi bị xao động bởi những lợi hại trước mắt”6. Phó Toàn quyền Đông Dương những năm 30 của thế kỷ XX là Yves Charles Châtel thì viết rằng: người Nghệ là “những con người có khí phách, yêu văn học, hăng hái trong lao động và dũng cảm, nhẫn nại trên một vùng đất đầy cam go, thử thách. Sở dĩ những người dân ở đây có bản lĩnh đặc biệt như vậy, chắc chắn vì họ đã được tôi luyện qua một quá khứ lâu dài, và chỉ điều đó mới giải thích được cho người ta hiểu những đặc thù rất rõ rệt trong tính cách và tình cảm của họ”.7 Tác giả Nghệ An phong thổ ký nhận xét con 6 người Nghệ Tĩnh: “Can đảm đến sơ suất, cần cù đến liều lĩnh, cương quyết đến khô khan và tằn tiện đến cá gỗ”.8 Đặng Thai Mai cho rằng: người Nghệ “tuy không bộc lộ một cách ồn ào hời hợt, nhưng lại có phần suy nghĩ, điềm tĩnh, sâu sắc và bền bỉ, cảm động đến thiết tha”.9 Người Nghệ nói chung bị cho là “gàn”, và Ngô Đức Thịnh cho rằng, cái gàn là “trạng thái tâm lý mà ở đó có sự khác biệt, xung đột giữa lý trí và hiện thực, bắt hiện thực phải chiều theo tư duy của lí trí, từ đó dẫn đến sự nhận thức và hành động có phần lệch chuẩn”.10 Bởi có nhiều nhân tố hợp thành và tương tác với nhau trong nguồn gốc dân cư, tính cách người Nghệ mang nhiều nét phong phú và cả nhiều đối cực, do đó, khó có thể nhận xét một chiều. Vũ Ngọc Khánh (trong bài viết Tính cách người Nghệ) đã nhìn thấy trong mỗi người Nghệ có ba con người (một kẻ bình dân khố chạc - tiếng địa phương là khố dây, chỉ hạng người cùng cực, một con người chữ nghĩa văn chương, một chiến sĩ tiền phong cách mạng). Sự khái quát này có thể vẫn là chưa đầy đủ nhưng đã cho thấy sự không dễ dàng trong khái quát tính cách người Nghệ, và như vậy, lẩy một nét tính cách nào đó của người Nghệ để khái quát thành nét tính cách chính của dân Nghệ đều là khiên cưỡng. Một đặc điểm nổi trội của người Nghệ là tính cộng đồng cao, thể hiện ra ngoài bằng sự gắn kết cộng đồng khá chặt chẽ. Xuất phát từ bối cảnh đặc thù của mảnh đất xứ Nghệ, con người nơi đây cần phải dựa vào cộng đồng mới sống được và phát triển được. Hơn nữa, để chống lại sự kỳ thị của trung tâm, để tạo thành sức mạnh chung, cộng đồng người Nghệ luôn có xu hướng liên kết, gắn bó, thân thiết thậm chí có trường hợp trở thành cục bộ. Sự co cụm của người Nghệ còn có một lí do khác mà chúng tôi sẽ nói ở phần sau, đó là do họ sử dụng một phương ngữ hết sức đặc biệt, một thứ phương ngữ đã biến người Nghệ thành một cộng đồng có bản sắc khác lạ, nó thể hiện nhiều điều về con người và văn hóa của họ; và nó đã đi vào dân ca ví, giặm để làm nên một thế giới nghệ thuật đầy bản sắc. 1.3. Phương ngữ Nghệ Trong lịch sử nghiên cứu phương ngữ học ở Việt Nam, cho đến nay, đã có nhiều công trình được công bố, trong số đó, công trình Tiếng Việt trên các miền đất nước (phương ngữ học)11 của giáo sư Hoàng Thị Châu là một công trình mang tính khái quát cao. Các trích dẫn về mặt lí thuyết của chúng tôi trong bài viết là dựa vào công trình này. Bên cạnh đó, các trích dẫn về mặt thống kê và phân tích định lượng yếu tố phương ngữ học trong dân ca Nghệ Tĩnh được chúng tôi tham khảo từ bài nghiên cứu Vai trò của phương ngôn trong dân ca hò, Ví, Giặm Xứ Nghệ của Phan Mậu Cảnh.12 Theo Hoàng Thị Châu, “phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của một ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ khác” (sdd, tr.24). Theo đó, phương ngữ được đối chiếu với ngôn ngữ toàn dân (ngôn ngữ chung của toàn dân tộc), phân biệt với phương ngôn (là tục ngữ địa phương), đối sánh với thổ ngữ (là các biến thể của phương ngữ ở cấp độ xã, thôn) và với các phương ngữ khác. Là một hiện tượng lịch sử, phương ngữ ra đời và tồn tại cùng với các bộ lạc hoặc các công xã nông thôn, trong quá trình hình thành nhà nước, nó sẽ dần hợp nhất với ngôn ngữ toàn dân. 13 Căn cứ vào các phương diện ngữ âm, từ vựng và thanh điệu, Hoàng Thị Châu đã chia tiếng Việt thành 3 phương ngữ: Bắc, Trung, Nam. Trong đó, phương ngữ Trung được cho là có 5 thanh điệu nghiêng về sử dụng thanh điệu trầm được cho là xuất hiện sớm trong lịch sử (trong 6 thanh: huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã, không, tùy từng vùng 7 mà có những sắc thái riêng. Ví dụ, phương ngữ Thanh Hóa không phân biệt thanh hỏi và thanh ngã, phương ngữ vùng Nghệ Tĩnh dấu ngã biến thành dấu nặng). Tuy nhiên, trên thực tế sử dụng, trong nhiều trường hợp, số thanh trong tiếng Nghệ ít hơn 5. Cụ thể: thanh bằng trong nhiều trường hợp nhập vào thanh không; thanh sắc nhập vào thanh hỏi, thanh ngã nhập vào thanh nặng, và trong những trường hợp này, chỉ còn lại 3 thanh: không, hỏi, nặng14. Sự giảm thiểu thanh điệu này diễn ra ở những nơi có thổ âm nặng, và đặc biệt là nó được sử dụng trong hát Ví, Giặm như là một cách nhấn mạnh tính bản sắc của phương ngữ (chẳng hạn: Anh đển gian hoa thi hoa đạ nở), mà nếu hát nhẹ đi thì dường như “chất Nghệ” cũng bớt đậm đà. Biến thể của phương ngữ Nghệ Tĩnh và các biểu hiện sinh động của các thổ âm thuộc phương ngữ này được thể hiện trong dân ca Ví, Giặm sẽ cho ta thấy một cách sống động hơn chất Nghệ được thể hiện một cách đậm đặc như thế nào trong bộ phận dân ca này. Trong lý thuyết về phương ngữ, sử dụng phương pháp địa lý - ngôn ngữ học, các nhà nghiên cứu chỉ ra đồng ngữ tuyến (ranh giới chỉ phạm vi hoạt động về mặt địa lý của một phương ngữ) và vùng đồng ngữ (chỉ một phương ngữ ... với dân ca ví, giặm ở mọi thời điểm, ở mọi không gian. Cũng như một số loại hình dân ca các vùng miền khác (như quan họ, xoan), sau năm 1945, các hoạt động diễn xướng dân gian dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh không được tiếp tục như trước. Dù vậy, trong các xóm làng, các nghệ nhân vẫn hát, các bài dân ca vẫn được truyền lại cho con cháu. Ở Thanh Chương quê tôi, vào những năm của thập kỷ 70 của thế kỷ trước, tôi vẫn được nghe một vài cuộc hò đối đáp của các anh chị thanh niên trong làng. Đến thập kỷ 80 thì diễn xướng đối đáp dân gian này mất hẳn. Tuy nhiên, trong lòng người Nghệ Tĩnh vẫn luôn có chỗ cho các bài dân ca. Theo “Báo cáo tổng quan về kiểm kê khoa học dân ca Ví - Giặm Nghệ Tĩnh” do Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam thực hiện trong 2 năm 2012-2013, thì: tại tỉnh Nghệ An có 15 huyện/thị/thành phố, bao gồm 60 xã/phường/thị trấn với 168 làng/thôn/xóm/khu dân cư và 60 câu lạc bộ đã và đang thực hành sinh hoạt dân ca Ví, Giặm; con số này ở tỉnh Hà Tĩnh là 12 huyện/thị/thành phố bao gồm 38 xã/thị trấn/phường với 92 làng/thôn/xóm/khu dân cư và 15 câu lạc bộ. Và “cả 2 tỉnh hiện có 2.696 cá nhân đại diện cho cộng đồng và câu lạc bộ (Nghệ An: 783 nam và 901 nữ; Hà Tĩnh: 545 nam và 503 nữ) ký tên vào bản đại diện cho cộng đồng, cam kết đồng thuận với chủ trương của Chính phủ Việt Nam về việc đề cử hồ sơ quốc gia, trình UNESCO xét duyệt đưa “Dân ca Ví - Giặm Nghệ Tĩnh” vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, năm 2013”33. Cùng với các hoạt động diễn xướng dân gian, hoạt động sưu tầm và biểu diễn của các đoàn dân ca, việc cải biên lời cũ và sáng tác lời mới của các nhạc sĩ, các hoạt động sưu tầm của các nhà nghiên cứu, các hoạt động truyền dạy của các nghệ nhân trên sóng truyền hình và trong các trường học, các phong trào thi đua học hát dân ca trong trường học và trong các địa phương trên địa bản tỉnhđã thực sự làm sống lại kho tàng dân ca Ví, Giặm trong cuộc sống mới. Đặc biệt, hình thức kịch hát dân ca với việc sân khấu hóa hình thức diễn xướng dân gian truyền thống đã làm tốt việc nuôi sống diễn xướng dân gian trong một hình thức mới, bằng các phương tiện nghe nhìn đã giới thiệu một cách rộng rãi vốn cổ tới nhân dân34 để rồi kho tàng dân ca Ví, Giặm được hồi sinh trong cuộc sống người dân với một sức sống mới. Hoạt động của hơn 50 câu lạc bộ dân ca trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh hiện nay là kết quả của những nỗ lực tổng hợp của các nghệ sĩ chuyên nghiệp và nghệ nhân dân gian xuất phát từ một chủ trương đúng đắn của hai tỉnh về việc bảo tồn, khôi phục và phát huy vốn cổ trong đời sống đương đại.35 Bên cạnh đó, việc sáng tác các ca khúc sử dụng chất liệu dân ca Ví, Giặm cũng là một cách thức thể hiện việc khơi nguồn và tiếp nối sức sống của dân ca cổ truyền trong bối cảnh mới. Trong các ca khúc này, phương ngữ Nghệ được sử dụng một cách tinh tế và uyển chuyển với trình độ nghệ thuật cao khiến cho chỉ cần lời ca được cất lên là người nghe được đắm chìm vào không gian văn hóa đặc sắc của xứ Nghệ. Vẫn là việc sử dụng tiếng địa phương (mô, rứa, ngái), sự pha trộn của các thanh điệu và việc thể hiện ngữ điệu đặc trưng giọng Nghệ, các bài hát về Nghệ Tĩnh tiếp nối mạch nguồn của dân ca Ví, Giặm đã chuyển tải hồn quê qua các ca khúc tới người nghe mà sóng thanh âm có sức lay động mãnh liệt tới các tâm hồn người xứ Nghệ. Có thể nói, không một người Nghệ Tĩnh nào không thuộc ít nhất một ca khúc về quê hương mình. Bên cạnh việc “ngôn 14 ngữ là một tập quán mà người ta mang theo mình và không thay đổi dễ dàng được” (Hoàng Thị Châu, tr. 223), âm nhạc của một vùng đất (dân ca, nhạc đương đại) có giá trị kết nối cao với một sức mạnh không thể ngờ tới, nó tạo nên một không gian văn hóa xuyên thời gian và xuyên không gian, đưa những người xa lại gần nhau trong một tinh thần tôn vinh bản sắc. Chính vì những giá trị đó, ngày 27/11/2014, dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh đã được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Các nghiên cứu về “bản sắc văn hóa” trên thế giới với việc tranh luận rằng, nó là sản phẩm của lịch sử, của quá khứ hay là câu chuyện đương đại, là sản phẩm thực hay là sự tạo dựng có chủ ý theo những mục đích nào đó36 hoàn toàn có thể lấy trường hợp dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh để khảo sát. Như đã trình bày từ đầu bài viết đến đây, có thể thấy, việc chọn dân ca Ví, Giặm để thể hiện bản sắc văn hóa (ở trạng thái thăng hoa và chưng cất nhất) là lựa chọn của người Nghệ trong quá trình lịch sử, nó in dấu trong quá khứ và vẫn tiếp tục đến hôm nay, vừa là các giá trị ổn định vừa thay đổi theo những biến đổi của con người và bối cảnh (lịch sử, xã hội) đương đại. Bối cảnh mới đang đặt ra vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống trong những điều kiện kinh tế, xã hội mới. Từ những mạch nguồn truyền thống và từ sự kết nối sâu xa của con người xứ Nghệ với không gian văn hóa của mình, từ tính bản sắc đậm đà trong thế giới tinh thần của người Nghệ, từ việc trao truyền gen văn hóa của người Nghệ tới các thế hệ con cháu, việc bảo tồn gần nhất với nguyên trạng là yêu cầu cấp thiết được đặt ra. Bảo tồn là để giữ gìn bản sắc văn hóa cho đất nước nhưng thực hiện sự bảo tồn và phát huy đó cần phải thông qua những con người cụ thể; nó phải vì đất nước nói chung, vì xứ Nghệ và con người Nghệ nói riêng. II. LỜI KẾT Trong lời Tựa sách An Tĩnh cổ lục, Phó toàn quyền Đông Dương Yves Charles Châtel viết: “Nghệ Tĩnh là một trong những miền đất của xứ Đông Dương có những bản sắc và đặc điểm rõ rệt hơn đâu hết”. “Tính bản sắc” và “đặc điểm rõ rệt” này có thể cảm nhận một cách dễ dàng nhất qua biểu tượng chưng cất của văn hóa xứ Nghệ là dân ca Ví, Giặm với tư cách là một căn cước văn hóa của người Nghệ như ta đã và đang thấy. Hơn nữa, là một kho tàng diễn xướng-dân ca có giá trị âm nhạc cao, là sản phẩm của những không gian diễn xướng đặc thù của một vùng quê có tính kết nối và lan tỏa nội vùng mạnh mẽ khiến cho nó có sức sống bền bỉ vượt thời gian, dân ca Ví, Giặm đang từ xu hướng hướng tâm một cách khả bảo thủ để lan tỏa ra các cộng đồng khác trong nền văn hóa Việt Nam cũng như các nền văn hóa khác trên thế giới. Trải biết bao dâu bể, Ví, Giặm đã, đang và sẽ sống một đời sống mạnh mẽ trong tâm hồn người Nghệ, trong không gian rộng lớn toàn cầu nơi những người Nghệ đang sống, và như vậy, nó mang sức sống Việt Nam tỏa rạng muôn nơi. Cũng như người của biết bao miền quê khác, tôi yêu quê hương tôi bằng một một tình yêu sâu nặng. Trong tình yêu đó, với mọi người Nghệ, tiếng Nghệ như là một biểu tượng của tất cả sự gian khổ, nhọc nhằn, của dịu ngọt và đằm thắm, của bình yên và giông bão gắn kết người Nghệ thành một cộng đồng đầy thân thương; và Ví, Giặm như một thứ hồn cốt của quê hương mà tôi tin, tất cả mọi người Nghệ đều từ đó để “lớn nổi thành người”. 15 Chú thích: 1 Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa Việt Nam, Nxb. Trẻ, tr.64 2 Về mặt phong thổ, xứ Nghệ "xưa nay vẫn để lại trong tâm não của nhiều người ấn tượng một khu vực không hề được tạo vật cưu đương. Mấy mảnh đồng bằng hẹp như bị thắt riết vào bao nhiêu thung lũng, giữa những dãy núi chập chùng. Đất đai phần lớn chả có bao nhiêu màu mỡ. Nhiều nơi chỉ là đồng chua nước mặn. Cảnh vật quanh năm, nếu không nói là cằn cỗi, thì cũng không có gì là thi vị. Một mùa xuân nghèo màu sắc, hiếm thanh âm. Hè đến là nắng với gió. Những đợt "nam cào" làm cho nứt đất nẻ đồng, cạn cả khe suối, khô róc cả giếng, ao, đầm hồ. Bụi tỏa mù trời, đầu cả đường, lùa vào tận nhà ở, phủ lên cả đồ đạc. Gió vồ vập làng mạc, gió rung chuyển cả núi rừng. Nắng với gió là hai nguyên tố ngự trị. Tiếp theo đó là mùa thu với mưa với lụt. Rồi đến mùa đông ủ dột, lạnh lẽo, tiêu điều" (Đặng Thai Mai (1960), Văn thơ Phan Bội Châu, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, (in lần thứ 2), tr. 34-35) 3 Bùi Dương Lịch viết: “Núi Nam Giới trên bờ biển xã Dương Luật, huyện Thạch Hà. Ngày trước, phía Nam nước ta giáp giới nước Chiêm Thành, nên đặt tên là núi Nam Giới”. (Nghệ An ký, Nguyễn Thị Thảo dịch và chú, Nxb. KHXH, H., 1993, tr.155). 4 An Tĩnh cổ lục, Bản dịch của Nguyễn Đình Khang và Nguyễn Văn Phú; phần hiệu đính của Chương Thâu và Phan Trọng Báu, Nxb. Nghệ An và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005, tr. 20 5 Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập I, Nxb. Sử học, H., tr.23 6 Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nguyễn Thị Thảo dịch, Bạch Hào hiệu đính, Nxb. KHXH., H., 1993, tr.211 7 Lời Tựa cuốn An Tĩnh cổ lục, Sdd., tr.10 8 Dẫn theo Lê Văn Hảo (1963), Vài nét về sinh hoạt của hát giặm và hát ví - dân ca Nghệ Tĩnh, Tạp chí Đại học, Sài Gòn, số 34 9 Đặng Thai Mai (1960), Văn thơ Phan Bội Châu, sđd, tr. 40 10 Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng & phân vùng văn hóa Việt Nam, Nxb. Trẻ, TpHCM, tr.189 11 Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước (phương ngữ học), Nxb. KHXH., H. 12 Phan Mậu Cảnh (2010), Vai trò của phương ngôn trong dân ca hò, ví, giặm Xứ Nghệ, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị hò, ví, giặm xứ Nghệ, Tp Vinh, 2011 13 Karl Marx đã nói rằng: “Thổ ngữ là sản phẩm của công xã, cũng như nếu xét theo một quan điểm đó, nó là bản thân sự tồn tại của công xã: là công xã tự biểu hiện” (dẫn theo Hoàng Thị Châu, tr. 230). 14 Hoàng Trọng Canh trong bài viết Phương ngữ Nghệ Tĩnh với đặc trưng của dân ca Xứ Nghệ (2014) đã phân tích thang âm phức tạp dẫn đến tính “lơ lớ”, “trọ trẹ” trong phát âm của người Nghệ 15 Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập 1, Nxb. Sử học, H. 16 Theo thống kê của Phan Mậu Cảnh, có 20% số bài hát ví sử dụng tiếng Nghệ, và 100% bài hát dặm sử dụng tiếng Nghệ. 17 Nguồn: social-report-2010.pdf 18 Website: www.CESifo-group.org/wp 19 Nguyễn Chung Anh (1958), Hát ví Nghệ Tĩnh, Nxb. Văn Sử Địa, H., tr.40 20 Hoàng Trọng Canh (2014), Phương ngữ Nghệ Tĩnh với đặc trưng của dân ca Xứ Nghệ, Nguồn: Báo Hà Tĩnh online 21 Bùi Dương Lịch, sdd, tr. 214 22 Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), Hát giặm Nghệ Tĩnh, sdd 23 Stephen Samuel James (2011), Những người London gốc Việt: Các bản sắc xuyên quốc gia qua những liên kết cộng đồng (Vietnamese Londoners: Transnational Identities Through Community Networks) 24 Nguyễn Phương Châm (1998), Tính chất bác học trng ca dao xứ Nghệ, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3. 25 Ninh Viết Giao (1961), Hát phường vải, Nxb Văn hóa & Viện Văn học, tr.27 26 Ninh Viết Giao (1961), Hát phường vải, Nxb Văn hóa & Viện Văn học, tr.49 27 Lê Văn Hảo (1963), Vài nét về sinh hoạt của hát giặm và hát ví - dân ca Nghệ Tĩnh, Đại học, Sài Gòn, số 34 28 Thái Kim Đỉnh (1995), Tản mạn về hát giặm, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, H., 1995 29 Lê Văn Hảo (1963), bdd 30 Nguyễn Chung Anh (1958), sdd, tr.42 31 Hỏi (Sĩ Đường): Một là tương lạt muối, Hai là tương xấu đỗ nành, Ba là Tương vắn (ngắn) múi khăn xanh, Đường đại lộ thông hành, Không chộ Tương lai vãng, Nỏ chộ nàng lai vãng. Đáp (Di Tương): Tương không hề lạt muối, Tương không xấu đỗ nành, Tương cũng không vắn múi khăn xanh, Đường đại lộ thông hành, Tương đi ngày ba bận, Tương đạp giữa mặt đường ba bận. 32 Tôi vẫn nhớ như in cảm giác bị shock khi nghe cuộc hò đối đáp vào một đêm trăng mùa hè cách đây hơn 35 năm quê tôi (Ngọc Sơn, Thanh Chương). Trong cuộc hò đối đáp đó, khi bị nhóm các chàng trai trêu chọc hơi ác ý, các cô gái lập tức đáp lại: “Hò chi hò dại hò thàm, Bẻ que truồng lợn chống hàm cha mi lên” khiến cho cuộc hò đối đáp lặng đi. Xin chú ý, người Thanh Chương phát âm từ “chuồng lợn” thành chữ “truồng lợn”. 33 Nguồn: 34 Việc ra đời thể loại kịch hát được chuyển thể từ những làn điệu ví, giặm được bắt đầu với vở “Không phải tôi”(1970) và nhiều vở diễn như: “Cô gái sông Lam”; “Lời Người, lời của nước non” đã đánh dấu thành công của Đoàn Dân ca Nghệ Tĩnh. 16 35 Nhiều năm xa quê, tôi cũng không ngờ xã Ngọc Sơn (huyện Thanh Chương, Nghệ An) hiện đã có một câu lạc bộ Ví, Giặm với hơn 40 thành viên mà từ chủ nhiệm, người viết lời và dàn dựng các điệu hát đến các thành viên đều là người họ hàng quen biết. 36 Fred Dervin (2011), Bản sắc văn hóa, tính đại diện và những vấn đề khác (Cultural identity, representation and Othering), Nguồn: Jean-François Bayart (2005), Những ảo tưởng về bản sắc văn hóa (The Illusion of Cultural Identity), University Of Chicago Press. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt 1. Nguyễn Chung Anh (1958), Hát ví Nghệ Tĩnh, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, tr.40 2. Hippolyte le Breton (1936), An Tĩnh cổ lục, Tập san “Đô thành hiếu cổ” xuất bản, Bản dịch của Nguyễn Đình Khang và Nguyễn Văn Phú; phần hiệu đính của Chương Thâu và Phan Trọng Báu, Nxb. Nghệ An và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005 3. Hoàng Trọng Canh (2014), Phương ngữ Nghệ Tĩnh với đặc trưng của dân ca Xứ Nghệ, Nguồn: Báo Hà Tĩnh online 4. Phan Mậu Cảnh (2010), Vai trò của phương ngôn trong dân ca hò, ví, giặm Xứ Nghệ, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị hò, ví, giặm xứ Nghệ, Tp Vinh, 2011 5. Nguyễn Phương Châm (1998), Tính chất bác học trng ca dao xứ Nghệ, Tạp chí Văn hóa dân gian, Hà Nội, số 3. 6. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước (phương ngữ học), Nxb. KHXH., Hà Nội. 7. Nguyễn Đổng Chi & Ninh Viết Giao (1962), Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập 1&2, Nxb. Sử học, Hà Nội. 8. Thái Kim Đỉnh (1995), Tản mạn về hát giặm, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội. 9. Ninh Viết Giao (1961), Hát phường vải, Nxb Văn hoá & Viện Văn học, Hà Nội. 10. Lê Văn Hảo (1963), Vài nét về sinh hoạt của hát giặm và hát ví - dân ca Nghệ Tĩnh, Tạp chí Đại học, Sài Gòn, số 34 11. Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nguyễn Thị Thảo dịch, Bạch Hào hiệu đính, Nxb. KHXH., H., 1993, tr.211 12. Đặng Thai Mai (1960), Văn thơ Phan Bội Châu, In lần thứ 2, Nxb. Văn hóa, Hà Nội. 13. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng & phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp.HCM Tài liệu tiếng nước ngoài 1. The Ministry of Social Development (2010), The Social Report, Source: ts/the-social-report-2010.pdf 2. Oliver Falck, Alfred Lameli, Stephan Heblich, Jens Suedekum (2010), Dialect, Cultural Identity and Economic Exchange, Website: www.CESifo-group.org/wp 3. Stephen Samuel James (2011), Vietnamese Londoners: Transnational Identities Through Community Networks, Goldsmiths College, University of London 4. Fred Dervin (2011), Cultural identity, representation and Othering, Source: ct.pdf 5. Jean-François Bayart (2005), The Illusion of Cultural Identity), University Of Chicago Press. Akhil Gupta and James Ferguson (1992), “Beyond "Culture": Spsace, Identity, and the Politics of Difference”, Source: Cultural Anthropology, Vol. 7, No. 1, Space, Identity, and the Politics of Difference, (Feb., 1992), pp. 6-23 Ngày nhận bài: 19/5/2015 Biên tập xong: 20/6/2015 Duyệt đăng: 25/6/2015
File đính kèm:
- ban_sac_nguoi_nghe_nhin_tu_dan_ca_vi_giam.pdf