Bản chất của khoa học theo quan điểm Mác Xít
Lịch sử phát triển khoa học nhân
loại cho đến nay đã trải qua 5 cuộc cách
mạng lớn:
- Cuộc cách mạng lần thứ nhất diễn
ra vào khoảng 500.000 - 3000 năm TCN
với việc phát minh ra lửa của những
người vô danh.
- Cuộc cách mạng lần thứ hai diễn
ra vào khoảng 3000 TCN - 500 năm SCN
với việc phát minh ra kim loại (đồ sắt và
đồ đồng).
- Cuộc cách mạng lần thứ ba diễn ra
vào khoảng thế kỷ XVII, XVIII với việc
phát minh ra động cơ chạy bằng sức gió,
sức nước.
- Cuộc cách mạng lần thứ tư diễn ra
vào khoảng thế kỷ XVII, XIX với việc
phát minh ra máy hơi nước, sản xuất thép
và xi măng, sinh lực Paster (sự sống) và
đồng hồ bấm giây đo giờ. Từ cuộc cách
mạng này công trường thủ công đã
chuyển mạnh sang nền đại cơ khí.
- Cuộc cách mạng lần thứ năm diễn
ra từ giữa thế kỷ XX cho đến nay, đó là
cuọc cách mạng khoa học - công nghệ, tạo
ra những bước ngoặt lớn về năng lượng,
vật liệu, sinh học, thời gian,.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản chất của khoa học theo quan điểm Mác Xít
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2013 23 BẢN CHẤT CỦA KHOA HỌC THEO QUAN ĐIỂM MÁC XÍT ThS. Nguyễn Thị Hoa Kiều Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung Tóm tắt: Trong suốt tiến trình phát triển lịch sử tư tưởng nhân loại, bản chất khoa học theo quan điểm Mác-xít luôn là đối tượng nghiên cứu của khoa học trong quá trình xây dựng quan điểm, đường lối, chính sách và chủ trương trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: Hệ thống các quan điểm Mác xít về bản chất của khoa học. Khoa học là hệ thống tri thức được tích luỹ trong quá trình lịch sử và được thực tiễn chứng minh, phản ánh những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như những hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện thực. Nói một cách khác, khoa học là một hệ thống tri thức bao gồm những quy luật về tự nhiên, xã hội và tư duy, là kết quả của quá trình con người nhận thức và cải tạo thế giới, nó được thể hiện bằng những khái niệm, những quy luật, phạm trù, phán đoán hoặc những học thuyết, Lịch sử phát triển khoa học nhân loại cho đến nay đã trải qua 5 cuộc cách mạng lớn: - Cuộc cách mạng lần thứ nhất diễn ra vào khoảng 500.000 - 3000 năm TCN với việc phát minh ra lửa của những người vô danh. - Cuộc cách mạng lần thứ hai diễn ra vào khoảng 3000 TCN - 500 năm SCN với việc phát minh ra kim loại (đồ sắt và đồ đồng). - Cuộc cách mạng lần thứ ba diễn ra vào khoảng thế kỷ XVII, XVIII với việc phát minh ra động cơ chạy bằng sức gió, sức nước. - Cuộc cách mạng lần thứ tư diễn ra vào khoảng thế kỷ XVII, XIX với việc phát minh ra máy hơi nước, sản xuất thép và xi măng, sinh lực Paster (sự sống) và đồng hồ bấm giây đo giờ. Từ cuộc cách mạng này công trường thủ công đã chuyển mạnh sang nền đại cơ khí. - Cuộc cách mạng lần thứ năm diễn ra từ giữa thế kỷ XX cho đến nay, đó là cuọc cách mạng khoa học - công nghệ, tạo ra những bước ngoặt lớn về năng lượng, vật liệu, sinh học, thời gian,... Nhận thức của loài người phân chia thế giới thành những lĩnh vực khác nhau (tự nhiên, xã hội và tư duy). Căn cứ vào tính chất của từng lĩnh vực đã hình thành nên các lĩnh vực khoa học với những đặc trưng riêng, biểu hiện, chức năng, nhiệm vụ đối với đối tượng nghiên cứu. Lịch sử phát triển khoa học nhân loại đã chia khoa học thành 3 lĩnh vực: - Lĩnh vực khoa học tự nhiên: phát hiện những quy luật về giới tự nhiên, đồng thời xây dựng những cơ sở lý thuyết để phát triển sản xuất. Ở Phương Tây, khoa học tự nhiên xuất hiện từ thời kỳ cổ đại, và nó trở thành khoa học hiện đại khi Phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa xuất hiện. Mới đầu là sự hình thành các vật thể thiên văn, rồi đến vật lý, hoá học, sinh vật học,... Nhưng các khoa học tự nhiên vào những giai đoạn nhất định chỉ được xem xét một cách rời rạc cho nên đã trở thành nguyên nhân cho sự xuất hiện của siêu hình học. Tuy nhiên, đến Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2013 24 thế kỷ XVIII, XIX tư tưởng về sự thống nhất của giới tự nhiên và về thuyết tiến hoá dần dần hình thành, đặc biệt với việc tìm ra tế bào hữu cơ, quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, học thuyết tiến hoá đã tạo ra những tiền đề mang tính khoa học sát thực cho việc hình thành chủ nghãi duy vật biện chứng, và do đó, siêu hình học mất dần chỗ đứng. - Lĩnh vực khoa học xã hội: được hình thành lần đầu tiên dưới chế độ Tư bản chủ nghĩa do Đin-Tây (Dilthey - người Đức) và Ô-guýt-com-tơ (A.Comte - người Pháp) sáng lập. Tuy nhiên, khoa học xã hội do những nhà khoa học này sáng lập chỉ gắn với lợi ích và cơ sở kinh tế của giai cấp tư sản. Khoa học xã hội chân chính được Mác - Ăngghen sáng lập vào thế kỷ XIX, đó là khoa học hoàn toàn duy vật về lịch sử, về quy luật phát triển của xã hội. - Lĩnh vực khoa học có tính kỹ thuật: gắn liền với khoa học kỹ thuật hiện đang phát triển: Nghiên cứu quy luật của kỹ thuật và công nghệ, khả năng áp dụng vào sản xuất, hợp nhất khoa học tự nhiên và khoa học xã hội để tạo ra một chất lượng mới. Tuy nhiên, việc phần loại các khoa học nói trên chỉ có tính tương đối bởi vì, trên thực tế có những môn khoa học có thể xếp vào khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội đều được (Y học, tâm lý học,...). Đặc biệt là những khoa học có cấu trúc rất chung (như điều khiển học) không thuộc vào loại nào nhưng vẫn áp dụng cho cả ba loại. Triết học là khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Dù khoa học có được phân chia như thế nào thì mỗi một khoa học đều phải bảo đảm các yếu tố như: - Tri thức kinh nghiệm, là những sự việc, sự kiện và sự mô tả dựa trên kinh nghiệm, nhận xét thí nghiệm,... - Tri thức lý luận, là những phán đoán dựa trên các giả thuyết, quy luật. - Phương pháp và cách thức xử lý thông tin, bao gồm phương pháp luận là phép biện chứng duy vật và những phương pháp nghiên cứu chuyên biệt, những kỹ thuật nghiên cứu. - Những giả thuyết và kết luận triết học, là kết quả tổng hợp được tạo ra trong quá trình nghiên cứu. Đó là nội dung chủ yếu những tri thức khoa học được hệ thống và khái quát hoá, được xây dựng thành lôgíc khoa học và được thể hiện trong công trình nghiên cứu bằng phương pháp trình bày, ngôn ngữ và văn phong khoa học. Những kết luận triết học của khoa học bao giờ cũng có vai trò, vị trí quan trọng trong sự phát triển của khoa học, của chính bản thân triết học nói riêng và xã hội nói chung. Đây chính là sự kết tinh những giá trị tinh tuý nhất được rút ra từ quá trình nghiên cứu, nó phản ánh trình độ tư tưởng khoa học. Vì vậy, mọi khoa học trên bước đường phát triển của mình cần phải thấm nhuần tinh thần và phương pháp triết học, không được lẫn tránh những vấn đề của triết học (về bản thể luận và nhận thức luận). Tùy thuộc vào đặc trưng, tính chất của các khoa học khác nhau mà nó được khái quát hoá, trừu tượng hoá và cụ thể hoá. Độ sâu sắc và tính triệt để của khoa học được thể hiện trong những bình luận và những kết luận của triết học, song chính những kết Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2013 25 luận triết học sẽ trở thành nguồn cung cấp thế giới quan và phương pháp luận cho các khoa học. Nhờ vào sự trang bị này của triết học, các khoa học đã nâng mình lên một tầm cao mới, tầm cao của triết học. Viện sĩ F.Lô-rốp tại Hội nghị triết học thế giới lần thứ 18 (tổ chức tại Anh) đã khẳng định rằng: “Triết học không bao giờ mất đi vị thế xã hội của nó. Xã hội càng tiến sâu vào các quá trình phát triển bao nhiêu càng cần đến sự có mặt của những tư tưởng triết học bấy nhiêu. Không phải giờ phút cáo chung của triết học đã điểm, trái lại, chính lúc này, trước những bước ngoặt lớn của lịch sử và của khoa học triết học mới đang thực sự bắt đầu giờ “sáng sao” của nó” [1]. Khoa học vốn là sản phẩm của tư duy cải biến hiện thực, nhưng nếu không thông qua hoạt động của con người mà chỉ tự bản thân nó thôi thì không thể tạo nên sự biến đổi trong đời sống xã hội, như Mác nói, “khoa học không thể biến thành cái gì cả, không thể sinh ra tác động tích cực hay tiêu cực”. Khoa học chính là một biểu tượng về sức mạnh của trí tuệ con người. Nhờ vào tính năng của khoa học, con người từng bước khám phá giới tự nhiên và xã hội, trong đó, con người từng bước lần tìm ra quy luật vận động của chúng và đưa ra phương cách hành động thích hợp nhất. Hơn thế nữa, nhờ vào khoa học, con người khám phá ra chính quy luật tồn tại, vận động của chính bản thân mình, coi mình là đối tượng của sự nghiên cứu để từ đó tạo ra một hệ thống những tri thức, những hiểu biết về loài người. Với sự sáng suốt của lý trí, khoa học không chỉ cung cấp nhận thức và thúc đẩy hành động của con người trong việc cải tạo tự nhiên đúng quy luật mà còn đưa con người từng bước vươn đến tự do. Với ý nghĩa đó, khoa học là sản phẩm biểu hiện sự khôn ngoan của trí tuệ con người, nó được xem là nguồn “tài nguyên đặc biệt” và vô tận của xã hội loài người. Sự gia tăng hàm lượng trí tuệ của khoa học tương ứng với sự phát triển của thực tiễn, yêu cầu: “Khoa học phải biến thành công nghệ để phục vụ sản xuất phát triển kinh tế. Nghiên cứu phải dẫn tới ứng dụng và triển khai công nghệ, công nghệ chỉ thật sự là công nghệ khi nền tảng lý thuyết khoa học của nó thực sự vững chãi. Và, ứng dụng chỉ thực sự có kết quả, đảm bảo chất lượng ở độ tin cậy khi những nhiệm vụ, mục tiêu của nghiên cứu lý thuyết đã thực sự được giải quyết một cách thấu triệt, nghiêm túc” [2]. Phép biện chứng duy vật là tinh hoa của trí tuệ nhân loại được Mác - Ăngghen đúc kết và Lênin phát triển trên cơ sở những thành tựu của triết học, của khoa học hiện đại và thực tiễn lịch sử nhân loại. Những khái niệm, những phạm trù, nguyên lý, quy luật và những phương pháp cơ bản của nó mang tính phổ quát. Chúng bao quát, tác động, chi phối giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người ở mọi nơi trong mọi giai đoạn lịch sử. Chính vì vậy, Phép biện chứng duy vật đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận cho hoạt động của nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Cùng với chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2013 26 phát kiến khoa học vĩ đại của Mác ghi đậm dấu ấn cách mạng về khoa học của nhân loại. Theo Ăngghen, đối với Mác, khoa học là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng. Nói về bản chất koa học và vai trò của nó Mác cho rằng, “tư bản có tính chất sản xuất...và lực lượng sản xuất xã hội chung (như khoa học chẳng hạn)”. Rõ ràng, Mác đã đề cao vai trò của khoa học trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Trong tác phẩm “Gia đình thần thánh” Mác đã từng bước làm rõ vai trò của tư tưởng, của lý luận khoa học. Mác khẳng định: “Tư tưởng căn bản không thể trở thành cái gì hết. Muốn sử dụng tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” (theo Mác, ở đây là tư tưởng khoa học). Theo đó, tự bản thân khoa học không thể tạo ra bất kỳ một tác động nào, mà phải thông qua sự vận dụng và hoạt động thực tiễn của con người thì nó mới phát huy tác dụng. Triết học Mác ra đời với những nội dung tiến bộ là một cuộc cách mạng về khoa học lý luận của nhân loại. Nó không chỉ là sự kế thừa những thành tựu khoa học, triết học trước đó của nhân loại mà còn là sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn của xã hội loài người, nhất là thực tiễn cách mạng xã hội. Không ai khác, chính Mác đã đưa phạm trù thực tiễn vào triết học, coi đó là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm tính đúng đắn của chân lý. Vì vậy, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trở thành nguyên tắc nền tảng của triết học Mác, và sự thống nhất đó được biểu hiện trên cả hai phương diện không gian và thời gian: Về mặt thời gian, triết học Mác luôn thể hiện mình trong những giai đoạn lịch sử khác nhau của sự phát triển khoa học và công nghệ, thực tiễn sản xuất, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế qua các cuộc cách mạng. Trong toàn bộ quá trình hoạt động thực tiễn, triết học Mác luôn giữ vai trò định hướng thế giới quan và phương pháp luận cho hoạt động của con người đồng thời được chính lịch sử “phản biện”, kiểm nghiệm và làm phong phú bằng chính hơi thở của thời đại. Ăngghen đã nhấn mạnh rằng lý luận của ông và Mác không phải là giáo điều, mà là lý luận mở và là kim chỉ nam cho mọi hành động. Về mặt không gian, đó chính là tính sáng tạo và tính thích nghi của triết học Mác khi được vận dụng vào thực tiễn cách mạng ở các dân tộc, các quốc gia khác nhau. Về điều này Lênin đã chỉ rõ “Chúng ta tuyệt đối không coi lý luận của Mác là một cái gì đó nhất thành bất biến và không thể xâm phạm, mà trái lại chúng ta tin rằng nó chỉ đặt cơ sở cho một khoa học, và những người xã hội chủ nghĩa, nếu không muốn lạc hậu với đời sống thực tế, cần đẩy môn khoa học này tiến lên phía trước trên mọi phương diện”. Trong xã hội hiện đại ngày nay, triết học Mác ngày càng có vai trò to lớn trong việc cải tạo hiện thực, hệ thống triết học Mác cần phải được mở rộng và thường xuyên bổ sung, phát triển những nội dung mới từ quá trình cải tạo tự nhiên - xã hội. Quả thật, triết học Mác đã và đang thể hiện được vai trò đó bởi vì: Nó luôn hướng về thực tiễn - xã hội và lịch Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2013 27 sử, hướng về thời đại, về tương lai; Nó bác bỏ chủ nghĩa bè phái và luôn tỏ rõ thái độ đúng đắn với mọi triết học phi Mác-xít; Với tư cách là Phép biện chứng duy vật, nó luôn có khả năng tự điểu chỉnh, tự đổi mới và phát triển. Cả Mác - Ăngghen và Lênin đều khẳng định, không có một học thuyết nào đạt tới chân lý tuyệt đích, và triết học Mác cũng không ngoại lệ. Vấn đề được đặt ra với triết học Mác trong xã hội hiện đại là: Thứ nhất, nhận thức cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại và những thành tựu của nó, tìm ra bản chất đích thực của cuộc cách mạng này, xem xét quy luật phát triển và dự bào tương lai của nó. Thứ hai, nhận thức quá trình toàn cầu hoá để trên cơ sở đó đánh giá hiệu quả tác động của nó đối đời sống con người và mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội, bổ sung những yếu tố những yếu tố cần thiết cho chủ nghĩa duy vật lịch sử. Thứ ba, nhận thức Chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhất là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá. Thứ tư, nhận thức sự khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản hiện thức, nhận thức phong trào công nhân quốc tế, “ba dòng thác cách mạng” trên thế giới và dự báo về các phong trào cách mạng này. Thứ năm, phân tích những vấn đề triết học mới nảy sinh. Thứ sáu, phân tích các trào lưu triết học phương Tây hiện đại, những vấn đề lý luận và cuộc sống hiện nay, tiến hành đấu tranh chống mọi quan điểm thù địch, bảo vệ bản chất khoa học và cách mạng của triết học Mác, góp phẩn thúc đẩy khoa học và thực tiễn phát triển. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là lý thuyết khoa học có vai trò to lớn trong việc cung cấp những luận cứ cho việc xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nội dung của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn được xác định là cơ sở khoa học để làm sáng tỏ các vấn đề thuộc của Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội. Chính chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với bản chất khoa học và cách là nền tảng khoa học hiện đại, phục vụ trực tiếp đường lối chính trị, hoạch định chiến lược phát triển xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Giá trị pháp lý của Tuyên ngôn độc lập, [2] Phạm Khiêm Ích, Hoàng Văn Hảo (chủ biên). 1995. Quyền con người trong thế giới hiện đại, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội. [3] Dẫn theo Hoàng Chí Bảo. 2006. Xây dựng cơ chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn ở nước ta hiện nay, NXB CTQG, HN, tr.36. [4] Mác - Ăngghen Tuyển tập, Tập 5, NXB ST, HN, 1983, tr.241-242. [5] Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp, Lê Hữu Tầng. 1987. Từ điển triết học giản yếu, NXB THCN, HN, tr.231.
File đính kèm:
- ban_chat_cua_khoa_hoc_theo_quan_diem_mac_xit.pdf