Bài giảng Tổng quan về tài chính công và quản lý tài chính công

Thất bại của khu vực tư nhân

1. Tình trạng thị trường (tư nhân) không thể cung cấp tối ưu một số hàng hóa, dịch vụ hay không thể giải quyết tối ưu những vấn đề xã hội.

2. Hàng hóa không thể cung cấp:

 - Hàng hóa công

3. Những vấn đề không thể giải quyết:

- Ngoại tác tiêu cực

- Tình trạng độc quyền

- Cung cấp thông tin hoàn hảo

- Phân phối thu nhập như mong muốn chung của xã hội

Chính phủ xuất hiện từ những thất bại của khu vực tư nhân

 Sứ mạng của chính phủ là hành động vì lợi ích cộng đồng và cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo lợi ích cộng đồng.
 Lợi ích cộng đồng còn được hiểu ra ngoài phạm vi lãnh thổ một quốc gia.
 Nhưng không phải chính phủ luôn đúng trong mọi trường hợp. Có nhiều trường hợp chính phủ thất bại.

 

ppt 105 trang kimcuc 15660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Tổng quan về tài chính công và quản lý tài chính công", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Tổng quan về tài chính công và quản lý tài chính công

Bài giảng Tổng quan về tài chính công và quản lý tài chính công
Trần Ngọc Hoàng, LHU 
TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH CÔNG &QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG 
Tháng 3/2018 
Nội dung 
Quan niệm tài chính công 
Quản lý tài chính công. 
Công cụ lý thuyết nghiên cứu phúc lợi công. 
Lược sử quan điểm về tài chính công. 
1.1 Về Khu vực công 
Theo cẩm nang thống kê Tài chính chính phủ (GFS) năm 2014 do IMF xây dựng, nền kinh tế của một quốc gia được chia thành hai khu vực: Khu vực công và khu vực tư nhân. 
Khu vực công bao gồm: khu vực Chính phủ chung và các đối tượng do Chính phủ kiểm soát, thường là các DN công mà hoạt động chủ yếu của nó là tham gia vào các hoạt động SXKD theo quy luật thị trường. Các DN công bao gồm: các DN công về tài chính và các DN công phi tài chính. DN công về tài chính bao gồm DN công về tiền tệ và DN công về tài chính phi tiền tệ. 
 1 Quan niệm 
tài chính 
công 
1.1 Về Khu vực công 
 1 Quan niệm 
tài chính 
công 
 Quan niệm 
Hình 1.1: Các bộ phận cấu thành của khu vực công 
1.1 Khu vực công 
"Chính phủ chung - general government" được hiểu theo nghĩa rộng hơn thuật ngữ "Chính phủ" trong tiếng Việt . Chính phủ trong tiếng Việt dùng để chỉ cơ quan hành chính nhà nước cấp cao nhất, đó là cơ quan hành chính nhà nước TW của Việt Nam. Chính phủ chung của một quốc gia theo GFS bao gồm: các cơ quan công quyền và các đơn vị trực thuộc, đó là những tổ chức thực hiện quyền lập pháp, tư pháp và hành pháp trong một vùng lãnh thổ. Khu vực Chính phủ chung thường bao gồm: chính quyền TW, chính quyền bang (nếu có) và chính quyền địa phương. 
 1 Quan niệm 
tài chính 
công 
1.1 Khu vực công 
Bộ máy lập pháp và Nguyên thủ quốc gia 
DN công tài chính, 
DN công phi tài chính 
Bộ máy hành pháp (Chính phủ, bộ, UBND ) 
Bộ máy tư pháp 
(Tòa án, viện kiểm sát) 
DN tư nhân 
Hộ gia đình 
Bộ máy nhà nước 
Khu vực công 
Khu vực tư 
NềnKi 
nhTế 
1.1 Khu vực công 
Các tổ chức thuộc KV Chính phủ chung đều có những đặc điểm chung sau đây: 
- Về chức năng kinh tế: Cung cấp các hàng hóa, dịch vụ cho xã hội cơ bản mang tính phi thị trường và phân phối lại thu nhập. Nguồn thu chính của các tổ chức này là từ các khoản đóng góp bắt buộc như: thuế, ngoài ra còn có các nguồn tài trợ và các khoản thu nhập khác 
- Được định hướng và kiểm soát bởi cơ quan quyền lực Nhà nước: 
- Chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý: Nhà nước chịu trách nhiệm pháp lý cuối cùng đối với tài sản và nợ phải trả của các tổ chức này. 
 1Quan niệm 
tài chính 
công 
1.2 Khái niệm tài chính công 
Thất bại của khu vực tư nhân 
1. Tình trạng thị trường (tư nhân) không thể cung cấp tối ưu một số hàng hóa, dịch vụ hay không thể giải quyết tối ưu những vấn đề xã hội. 
2. Hàng hóa không thể cung cấp: 
 - Hàng hóa công 
3. Những vấn đề không thể giải quyết: 
- Ngoại tác tiêu cực 
- Tình trạng độc quyền 
- Cung cấp thông tin hoàn hảo 
- Phân phối thu nhập như mong muốn chung của xã hội 
THAÁT 
BAÏI 
THÒ 
 TRÖÔØNG 
 Sứ mạng của chính phủ là hành động vì lợi ích cộng đồng và cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo lợi ích cộng đồng. Lợi ích cộng đồng còn được hiểu ra ngoài phạm vi lãnh thổ một quốc gia.Nhưng không phải chính phủ luôn đúng trong mọi trường hợp. Có nhiều trường hợp chính phủ thất bại. 
1 Quan niệm 
tài chính 
công 
Chính phủ xuất hiện từ những thất bại của khu vực tư nhân  
1.2 Khái niệm tài chính công 
Chính phủ (hay KV Chính phủ chung) luôn phải đảm nhận những nhiệm vụ lớn lao của cả quốc gia, dân tộc và thuộc về các chức năng vốn có của nhà nước. Cùng với quá trình phát triển KTXH, đặc biệt là khi nền KTTT bộc lộ những hạn chế vốn có không thể tự giải quyết thì chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước cũng ngày càng được chú trọng mở rộng hơn. Chính vì vậy, Chính phủ luôn cần có nguồn lực tài chính lớn để đáp ứng cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Từ đó xuất hiện khái niệm Tài chính công. 
 1 Quan niệm 
tài chính 
công 
1.2 Khái niệm tài chính công 
Thuật ngữ "tài chính công" được dùng để chỉ toàn bộ quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước gắn liền với hoạt động của khu vực công và khái niệm này có thể được tiếp cận dưới hai góc nhìn của kinh tế học và góc nhìn thể chế như sau: 
 1 Quan niệm 
tài chính 
công 
1.2 Khái niệm tài chính công 
Từ góc nhìn của kinh tế học: 
Tài chính công còn được gọi là kinh tế học công cộng, nghiên cứu về việc Nhà nước huy động nguồn thu và thực hiện chi tiêu như thế nào?, tác động của các khoản thu, chi đó tới hoạt động kinh tế, xã hội tập trung vào mục tiêu nào? nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước trong từng thời kỳ. Theo quan điểm của các nhà kinh tế, khi đánh giá tác động của hoạt động thu, chi do Nhà nước thực hiện tới việc làm, giá cả và tăng trưởng kinh tế cũng như công bằng xã hội thì đó chính là hoạt động tài chính công. 
 1 Quan niệm 
tài chính 
công 
1.2 Khái niệm tài chính công 
Hộp 1.1 minh họa các chức năng cơ bản của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường mà tài chình công được xem như một trong những công cụ quan trọng để thực hiện các chức năng này. 
 1 Quan niệm 
tài chính 
công 
1.2 Khái niệm tài chính công 
Giải quyết thất bại thị trường 
Cải thiện sự công bằng 
Cấp độ tối thiểu 
Cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy : Quốc phòng, Luật pháp và trật tự xã hội, Quyền tài sản, Y tế công cộng, Quản lý kinh tế vĩ mô 
Bảo vệ người nghèo : Các chương trình giảm nghèo 
Cấp độ trung bình 
Giải quyết ngoại ứng : 
Giáo dục cơ bản. Bảo vệ môi trường 
Điều tiết độc quyền: 
Điều tiết lợi ích, chống độc quyền 
Giải quyết tình trạng thông tin không hoàn hảo: Bảo hiểm... 
Cung cấp bảo hiểm xã hội : 
Tái phân bổ lương hưu, BH thất nghiệp 
Cấp độ cao, tích cực 
Phối hợp hoạt động tư nhân: 
 - Thúc đẩy thị trường 
 - Hình thành các tổ hợp/cụm liên hoàn (cluster) 
Phân phối lại thu thập 
Phân phối lại tài sản 
 1 Quan niệm 
tài chính 
công 
Hộp 1.1: Các chức năng của Nhà nước trong nền KTTT 
1.2 Khái niệm tài chính công 
Từ góc nhìn thể chế , theo nghĩa rộng tài chính công là tài chính của khu vực công gắn với những hoạt động thu, chi của Chính phủ chung và DN công nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trong từng thời kỳ. Theo nghĩa hẹp tài chính công được hiểu là tài chính của các cấp chính quyền, chỉ gắn với những hoạt động thu, chi của Chính phủ chung. 
Để giới hạn phạm vi nghiên cứu, khái niệm tài chính công được xem xét theo nghĩa hẹp dưới góc nhìn thể chế như sau: 
Tài chính công là những hoạt động thu, chi gắn với các quỹ tiền tệ của các cấp chính quyền nhằm thực hiện các chức năng KTXH của Nhà nước. 
 1 Quan niệm 
tài chính 
công 
1.2 Khái niệm tài chính công 
Từ góc nhìn thể chế , theo nghĩa rộng tài chính công là tài chính của khu vực công gắn với những hoạt động thu, chi của Chính phủ chung và DN công nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trong từng thời kỳ. Theo nghĩa hẹp tài chính công được hiểu là tài chính của các cấp chính quyền, chỉ gắn với những hoạt động thu, chi của Chính phủ chung. 
Để giới hạn phạm vi nghiên cứu, khái niệm tài chính công được xem xét theo nghĩa hẹp dưới góc nhìn thể chế như sau: 
Tài chính công là những hoạt động thu, chi gắn với các quỹ tiền tệ của các cấp chính quyền nhằm thực hiện các chức năng KTXH của Nhà nước. 
 1. Quan niệm 
tài chính 
công 
1.3 Phân loại tài chính công Việt Nam 
Phân loại theo tổ chức hệ thống chính quyền 
 Ở Việt Nam, tài chính của Chính phủ chung bao gồm: tài chính gắn với hoạt động của cấp chính quyền TW và cấp chính quyền địa phương. 
Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND, tương ứng với mỗi cấp chính quyền là một cấp tài chính công mà cốt lõi là NSNN, cụ thể: 
- TCC tỉnh, thành phố trực thuộc TW (cấp tỉnh). 
- TCC huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc cấp tỉnh (cấp huyện) 
- TCC xã, phường, thị trấn (cấp xã) 
- TCC đơn vị hành chính- kinh tế đặc biệt. 
Ngoài ra, còn có các quỹ tài chính ngoài NSNN. 
 1 Quan niệm 
tài chính 
công 
1.3 Phân loại tài chính công Việt Nam 
Phân loại theo mục đích tổ chức quỹ 
Tài chính công chia thành các bộ phận: 
- Ngân sách nhà nước 
- Các quỹ tài chính nhà nước ngoài NS (gọi tắt là quỹ ngoài ngân sách). 
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. NSNN bao gồm: NSTW và NSĐP. 
 1 Quan niệm 
tài chính 
công 
1.3 Phân loại tài chính công Việt Nam 
Phân loại theo mục đích tổ chức quỹ 
Còn các quỹ ngoài ngân sách (extrabudgetary funds) theo định nghĩa tại Cẩm nang GFS của IMF năm 2014, đó là các tài khoản giao dịch chính phủ chung không đưa vào NSNN, không được thực hiện theo những thủ tục ngân sách thông thường. VD: Những giao dịch về một khoản thu nhằm mục đích riêng nào đó, không đưa vào ngân sách như: Quỹ BHXH, Quỹ BHYT, Quỹ Bảo trì đường bộ...Quỹ ngoài ngân sách có các giao dịch tài chính đại diện cho khu vực chính phủ chung trong nền kinh tế nhưng không được đưa vào dự toán ngân sách thường niên của nhà nước (liên bang) hoặc ngân sách của các cấp chính quyền địa phương 
 1 Quan niệm 
tài chính 
công 
1.3 Phân loại tài chính công Việt Nam 
 Phân loại theo chủ thể quản lý trực tiếp 
 Theo cách này tài chính công có thể được chia thành hai bộ phận: 
- Tài chính của các cấp chính quyền 
- Tài chính của các đơn vị dự toán ngân sách 
Chủ thể trực tiếp quản lý tài chính công của các cấp chính quyền là các cấp chính quyền Nhà nước (trung ương, địa phương) với các cơ quan tham mưu như: Cơ quan tài chính, cơ quan KH & ĐT, KBNN... 
Chủ thể trực tiếp quản lý các quỹ ngoài ngân sách là các cơ quan nhà nước được nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức và quản lý các quỹ đó. 
 1 Quan niệm 
tài chính 
công 
1.3 Phân loại tài chính công Việt Nam 
 Phân loại theo chủ thể quản lý trực tiếp 
Đơn vị dự toán ngân sách là các cơ quan, tổ chức, được cấp có thẩm quyền giao dự toán NS. Đơn vị dự toán bao gồm: các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị SNCL, đơn vị cung cấp dịch vụ, hàng hóa công, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức CT XH NN, tổ chức XH, tổ chức XH NN có sử dụng kinh phí từ NSNN. 
Dự toán NS là kế hoạch thu, chi NS theo các chỉ tiêu xác định trong một năm, được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và là căn cứ để thực hiện thu, chi ngân sách. 
Đơn vị dự toán tùy theo có đơn vị trực thuộc hay không mà có đơn vị dự toán cấp 1, cấp 2, cấp 3, cấp 4 
 1 Quan niệm 
tài chính 
công 
2.1 Khái niệm Quản lý tài chính công 
Quản lý tài chính công không đơn thuần là công việc kế toán và tài chính về các hoạt động thu, chi, vay nợ của Nhà nước, nó được nhìn nhận là một chủ đề học thuật có cơ sở từ chính sách công, kinh tế học, luật học..., trong đó các nhân tố chính trị và thể chế đóng vai trò quan trọng . 
Quản lý tài chính công có thể được hiểu là các luật, tổ chức, hệ thống và thủ tục mà nhà nước sử dụng để huy động và sử dụng các nguồn lực khan hiếm một cách minh bạch và hiệu quả. 
Khuôn khổ pháp lý làm nền tảng cho QLTCC là các Luật thuế, Luật NSNN, Luật Đầu tư công...và các văn bản dưới luật. 
 2 Quản lý 
tài chính 
công 
2.1 Khái niệm Quản lý tài chính công 
Quản lý tài chính công có thể hiểu theo nghĩa rộng là quá trình Nhà nước hoạch định, xây dựng chính sách, sử dụng hệ thống các công cụ và phương pháp thích hợp, tác động đến các hoạt động của tài chính công nhằm thực hiện hiệu quả các chức năng của nhà nước. Theo nghĩa này, QLTCC bao gồm từ hoạt động xây dựng chính sách đến tổ chức thực hiện chính sách tài chính công của nhà nước. 
 2 Quản lý 
tài chính 
công 
2.1 Khái niệm Quản lý tài chính công 
 CS tài chính công và QLTCC có sự khác biệt nhất định. CS tài chính công tập trung vào trả lời câu hỏi Nhà nước "phải làm gì" trong nền KTTT liên quan tới chính sách thuế, chi tiêu, vay nợ để đạt được các mục tiêu tài khóa. Còn QLTCC tập trung vào các vấn đề "làm như thế nào" để có thể triển khai được các CS tài chính công đã được các cấp có thẩm quyền quyết định, tức là quan tâm tới cách thức làm thế nào để đạt được kỷ luật tài khóa tổng thể và chi tiêu chính phủ hiệu quả. Điểm khác biệt nữa là CS tài chính công nhấn mạnh tới việc lựa chọn công cụ tài khóa để đạt được các mục tiêu của Nhà nước. Còn QLTCC lại tập trung nhiều hơn tới các cơ chế quản lý cụ thể cần phải có để đảm bảo các công cụ tài khóa phát huy hết tác dụng trên thực tế. 
 2 Quản lý 
tài chính 
công 
2.1 Khái niệm Quản lý tài chính công 
Nói cách khác, QLTCC tập trung vào các cách thức triển khai thực hiện CS tài chính công. 
Ở phạm vi môn học này, QLTCC được tiếp cận chủ yếu từ góc độ cơ quan hành pháp trong việc tổ chức thực hiện CS tài chính công, không xem xét đến quá trình hoạch định và ban hành CS tài chính công. Theo đó QLTCC được hiểu như sau: 
QLTCC là quá trình các tổ chức công thuộc các cấp chính quyền xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, theo dõi và đánh giá việc thực hiện kế hoạch thu, chi, vay nợ nhằm thực hiện các chính sách tài chính công một cách hiệu quả trong từng thời kỳ. 
 2 Quản lý 
tài chính 
công 
2.2 Mục tiêu Quản lý tài chính công 
Trong QLTCC cần phải đạt được ba mục tiêu: 
Kỷ luật tài khóa tổng thể, 
Hiệu quả phân bổ 
Hiệu quả hoạt động. 
Những mục tiêu này được giải thích trong Sổ tay Quản lý Chi tiêu công như sau: "Tổng số tiền mà Chính phủ chi nên gắn sát với những gì có thể chi trả được trong trung hạn, theo đó trong ngân sách năm, chi tiêu nên được phân bổ phù hợp với ưu tiên chính sách và chi tiêu nên đạt được các kết quả mong muốn với chi phí thấp nhất" (World Bank 1998, tr.3). 
 2 Quản lý 
tài chính 
công 
Mục tiêu của tài chính công 
Cung cấp dịch vụ đạt hiệu quả-chi phí 
(Cost-effective 
service delivery) 
Phân bổ nguồn 
lực đạt hiệu suất 
(Efficient resource Allocation) 
Kỷ luật tài khóa tổng thể 
(Aggregate Fiscal discipline) 
2.2 Mục tiêu Quản lý tài chính công 
 a. Kỷ luật tài khóa tổng thể: 
Kỷ luật tài khóa tổng thể được hiểu là ngân sách phải được duy trì một cách tiết kiệm trong trung hạn, nghĩa là bảo đảm quản lý thu, chi không làm mất ổn định kinh tế vĩ mô, ví dụ: không gây ra thâm hụt ngân sách, nợ công lớn và không bền vững. Kỷ luật tài khóa tổng thể có thể đo lường bằng các chỉ số: Tỷ lệ % của thu NS so với GDP, Tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP, tổng số nợ công so với GDP... 
 2 Quản lý 
tài chính 
công 
2.2 Mục tiêu Quản lý tài chính công 
 a. Kỷ luật tài khóa tổng thể: 
Kỷ luật tài khóa tổng thể là kết quả của các dự báo đáng tin cậy về thu và chi. Tức là trên cơ sở dự báo thu có tính khả thi để lên kế hoạch bảo đảm chi tiêu của Chính phủ trong giới hạn nguồn thu đó để duy trì tình trạng tài chính của Chính phủ một cách bền vững, ổn định qua các chu kỳ kinh tế. Kỷ luật tài khóa tổng thể nói đến sự liên kết của chi tiêu công với tổng thu bao gồm cả thu nội địa và các khoản vay trong nước và nước ngoài bền vững. 
 2 Quản lý 
tài chính 
công 
2.2 Mục tiêu Quản lý tài chính công 
 a. Kỷ luật tài khóa tổng thể: 
Để duy trì kỷ luật tài khóa cần đảm bảo các yêu cầu: 
(i) Khi lập kế hoạch NS cần xem xét ổn định kinh tế vĩ mô không chỉ từ góc độ năm tài khóa hiện hành mà nên nhìn theo cả chu kỳ kinh tế và thậm chí giai đoạn dài hơn để đảm bảo duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Mục tiêu trần ngân sách phải có tính hiện thực, xem xét kỹ lưỡng các rủi ro về thu ngân sách trong kế hoạch t ... ới độ dốc đường bàng quan: một tỷ lệ tại đó người công dân đổi (lợi ích khi tiêu dùng) hàng hóa trên trục tung lấy (lợi ích khi tiêu dùng) hàng hóa trên trục hoành. 
MRS = - 
 MU TH 
MU CV 
MRS và độ dốc đường bàng quan 
Trường học 
Công viên 
Trường học 
1 
2 
3 
Nhận xét: 
MRS giảm 
dần khi trượt (move) trên đường bàng quan 
Thỏa dụng biên 
Để hiểu rõ sở thích của người tiêu dùng, các nhà kinh tế sử dụng khái niệm thỏa dụng biên. 
- Thỏa dụng biên (Marginal utility ) là mức thỏa dụng tăng thêm khi tiêu dùng thêm một đơn vị hàng hóa . 
- Thỏa dụng biên giảm dần (Diminishing marginal utility) . Đây là vấn đề có tính nguyên tắc do bởi: càng tiêu dùng thêm thì cảm giác “thỏa mãn” của bạn càng giảm đi. 
Thỏa dụng biên 
Với hàm thỏa dụng cho trước, U = Q TH Q CV , thì thỏa dụng biên là : 
	MU(Q TH ) = ∂U/∂Q TH = Q CV 
	→ Lấy đạo hàm từng phần từ hàm thỏa dụng của Q TH để xác lập mức thỏa dụng biên của sản phẩm trên trục hoành. 
	 Q TH : Lượng hàng trên trục tung 
	 Q CV : Lượng hàng trên trục hoành 
Thỏa dụng biên 
Ví dụ: Giả sử hàm thỏa dụng U có dạng 
U = ( Q TH Q CV ) 1/2 nếu cố định mức tiêu dùng Q TH = 2, khi đó, sự gia tăng thỏa dụng từ tiêu dùng thêm một đơn vị Q CV sẽ như thế nào ? 
 Xem hình 1.2 bên dưới 
Thỏa dụng biên H1.2 
MU (Q TH = 2) 
3 
2 
1 
0 
1.41 
0.59 
Q CV (số lượng Công viên) 
Thỏa dụng biên 
0.45 
Thỏa dụng biên 
Ví dụ : Khi PA1 di chuyển từ 0 tiêu dùng đơn vị Q CV nào đến tiêu dùng 1 đơn vị Q CV , thì mức thỏa dụng của PA1 gia tăng từ 0 đến √2 = 1.41. Nghĩa là thỏa biên của đơn vị Q CV đầu tiên là 1,41. 
Khi PA1 di chuyển từ đơn vị Q CV thứ 1 đến tiêu dùng đơn vị Q CV thứ 2, thì thỏa dụng biên của PA1 gia tăng đến √4 = 2. Nghĩa là, thỏa dụng biên tiêu dùng đơn vị Q CV thứ 2 chỉ mang cho PA1 mức thỏa dụng tăng thêm là 0.59, sự tăng thêm nhỏ hơn 1.41. 
Khi PA1 tiêu dùng đơn vị Q CV thứ 3, mức thỏa dụng của PA1 chỉ tăng lên đến √6 = 2.45, mức tăng thêm tiếp tục nhỏ hơn, chỉ còn 0.45. Như vậy, cứ mỗi đơn vị Q CV tiêu dùng tăng thêm, mức thỏa dụng có tăng lên, nhưng số tuyệt đối giảm dần. Đó là nguyên tắc thỏa dụng biên giảm dần. 
Đường giới hạn khả năng SX 
- PPF (production possibilities frontier) là tập hợp mức sản lượng tối đa của các hàng hóa mà nền kinh tế có thể sản xuất với tất cả nguồn lực sẵn có. 
Nói cách khác: bằng việc sử dụng mọi nguồn lực sẵn có nền kinh tế có thể sản xuất ở những điểm nằm trên PPF. 
- PPF mô tả sự đánh đổi: sản xuất nhiều hàng này dẫn đến sản xuất ít hàng khác. 
- Điểm nằm trên PPF là điểm sản xuất đạt hiệu suất. 
- Những điểm nằm trong PPF là những điểm không hiệu suất, tức là sản xuất nhiều hơn mặt hàng này kg cần phải giảm sản xuất mặt hàng khác Không có chi phí cơ hội của việc sản xuất thêm 1 hàng hóa. 
VD về đường khả năng sản xuất 
Giả sử địa phương Y dự kiến dành nguồn lực trị giá 90 tỉ đ cho xây trường học và công viên. Chi phí xây 1 trường là 15 tỉ đ. Chi phí làm 1 công viên là 10 tỉ đ. 
Công viên 
Trường học 
9 
6 
I 
J 
0 
MRT = Độ dốc của đường khả năng sản xuất. Hay tỷ lệ chuyển đổi biên Chi phí cơ hội của mặt hàng X = Giá trị của lượng hàng hóa khác bị mất đi để có thêm một đơn vị hàng X  
Trường học 
Công viên 
CP cơ hội giữa 5 và 6 cv là 1 trường học 
CP cơ hội giữa 9 và 10 công viên là 3 trường học 
Marginal Rate of Transformation 
Giới hạn ngân sách 
Giới hạn ngân sách (The budget constraint) Tổng giá trị nguồn lực để mua hàng hóa trên trục tung và trục hoành . 
Giả sử không có tiết kiệm và vay nợ . 
Gọi : 
Y = Mức thu nhập 
P V = Giá cả hàng hóa trên trục tung 
P H = Giá cả hàng hóa trên trục hoành 
11/29/2021 
Hiệu quả và công bằng - công cụ phân tích 
Giới hạn ngân sách 
Tổng số tiền chi tiêu là: 
	( P V Q V + P H Q H ) 
Bằng với thu nhập, bởi vì không có tiết kiệm và vay nợ: 
	Y = ( P V Q V + P H Q H ) 
Độ dốc đường giới hạn ngân sách: 
	= – (P V /P H ) 
Độ dốc của đường đẳng dụng bằng với độ dốc của đường giới hạn ngân sách 
Lựa chọn trong giới hạn NS 
Hiệu suất Pareto 
Hiệu suất Pareto (Pareto Efficiency) : Một cách phân phối (nguồn lực, thu nhập) khiến cho không ai được nhiều hơn mà không làm cho người kia bị tổn thất. Tối đa hóa mức phúc lợi của mọi người . 
- Nếu phân phối không đạt hiệu suất Pareto thì đó là lãng phí: vẫn có thể gia tăng phúc lợi cho người này mà không làm tổn hại ai. 
- Hoàn thiện Pareto (Pareto improvement): Cách thức tái phân nguồn lực làm cho ít nhất một người được nhiều hơn nhưng không làm bất cứ người nào tổn thất. 
KINH 
TEÁ 
PHUÙC 
 LÔÏI 
PA1 
PA2 
1 
2 
3 
VD về hiệu suất & hoàn thiện Pareto 
Gỉa sử, UBND phường X dự kiến dành 10 giờ mỗi tuần (thể hiện trên 2 trục để tiếp dân ở khu phố 1 hoặc khu phố 2 . 
10 
10 
A 
B 
C 
D 
Số giờ tiếp dân KP 1 
C: chưa đạt hiệu suất 
A hoặc B: đạt hiệu suất 
D: không thể 
C A hoặc C B: Hoàn thiện 
Số giờ tiếp dân KP 2 
0 
Lược sử phát triển quan điểm về tài chính công 
Phần đọc thêm 
Quan điểm về tài chính công 
Tư tưởng cổ đại 
Tư tưởng trung đại 
Tư tưởng cận đại 
Tư tưởng hiện đại 
Tư tưởng cổ đại 
Các nhà tư tưởng tiêu biểu thời kỳ này là Xenophon (430-345 trước CN), Platon (427-347 trước CN), Aristoteles (384-322 trước CN),, 
Platon chia xã hội thành 3 tầng lớp: các nhà triết học; binh sỹ; điền chủ, thợ thủ công và thương gia. Nô lệ không được xếp hạng. Hai tầng lớp đầu hình thành bộ máy nhà nước và không có quyền sở hữu bất kỳ cái gì. Quyền sở hữu thuộc tầng lớp thứ ba – điền chủ, thợ thủ công và thương gia. 
Những người nô lệ, cùng với điền chủ, thợ thủ công và thương gia phải thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của hai tầng lớp đầu. Nô lệ bị xếp vào dạng công cụ lao động biết nói và bị bóc lột tối đa. 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng cổ đại 
Tư tưởng về sở hữu và nhà nước của các nhà tư tưởng cổ đại mâu thuẫn ở chỗ tầng lớp nắm nhà nước không sở hữu gì hết và buộc tầng lớp còn lại cùng với nô lệ phải thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của mình. Với quan điểm này thì gần như không có ý niệm về tài chính công. 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng trung cổ 
Thời đại trung cổ bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ IV đến cuối thế kỷ XV. Thomasd Aquin (1225-1274) cho rằng việc nhà vua thu địa tô là hoàn toàn hợp lý vì thu từ ruộng đất mà ruộng đất thuộc nhà vua. Cũng khó thể cho rằng đã hình thành ý niệm tài chính công trong giai đoạn này vì thực chất thu nhập và lợi ích của nhà vua chưa mang tính cộng đồng. 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng cận đại 
Bước sang đầu thế kỷ XV, chủ nghĩa tư bản ra đời. Kinh tế hàng hóa giản đơn chuyển sang kinh tế thị trường. Sức sản xuất xã hội được giải phóng và kéo theo nó là nhiều trào lưu tư tưởng và trường phái kinh tế học ra đời. 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng cận đại 
Trường phái Trọng Thương với các nhà kinh tế học điển hình như: Thomas Mun (1571-1641) người Anh, Antoine Montchrechien (1575-1629) người Pháp, Jean Bapstiste Colbert (1618-1683) người Pháp. Nổi bật hơn cả là J. B. Colbert, Bộ trưởng Tài chính thời Vua Louis XIV. 
Các nhà kinh tế đã đề cao vai trò của nhà nước trong việc bảo hộ hàng nội địa bằng thuế nhập khẩu và những trợ cấp đối với sản xuất công nghiệp trong nước. 
Họ ủng hộ những can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế và đương nhiên là chấp nhận mở rộng mức độ hoạt động của khu vực công. 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng cận đại 
Adam Smith (1723-1790) không đánh giá cao vai trò của nhà nước. Ông cho rằng : nhà nước chỉ nên tập trung vào ba vai trò: quốc phòng, bảo hộ công dân tránh khỏi những bất công do người khác gây ra, và cung cấp công trình công cộng. 
Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế mà hãy để trật tự tự nhiên chi phối – đó là những quy luật kinh tế khách quan hay “bàn tay vô hình”. CNTB có đủ điều kiện để cho những quy luật này điều khiển nền kinh tế mà không cần đến nhà nước. 
Xuất phát trên nền tảng đó, A. Smith không cho rằng nên mở rộng quy mô thu nhập công. 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng cận đại 
David Ricardo (1772-1823) đã thừa kế và phát triển học thuyết của Adam Smith về thuế. 
D. Ricardo cho rằng thuế l à một phần sản phẩm của đất đai v à cô ng nghiệp thuộc quyền sử dụng của nh à nước. Thuế l à m tăng thu nhập của nh à nước nhưng l à m giảm khả năng đầu tư, giảm khả năng ti ê u dù ng và l à m chậm tốc độ tăng của cải. 
Nhìn chung, D. Ricardo chủ trương thuế ôn h òa v à hạn chế tăng thuế. 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng cận đại 
Vilfredo Pareto (1848-1923) , người Ý, kế thừa thành công Léon Walras (1834-1910) – bậc thầy của trường phái Lausanne. 
Tư tưởng của V. Pareto gắn liền với kinh tế học phúc lợi. Ông nhận thấy trong những điều kiện nhất định, thị trường cạnh tranh có thể phân bổ nguồn lực theo cách có lợi cho người này và gây bất lợi cho người khác. 
Ông cho rằng việc phân bổ nguồn lực kinh tế chỉ đạt hiệu quả hoặc tối ưu khi chúng được phân bổ theo một cách mà không một cách tái phân bổ nào có thể làm một người thuận lợi hơn mà không làm người khác xấu đi. 
Đó gọi là Pareto efficiency hoặc tối ưu Pareto . 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng hiện đại 
Đến giai đoạn trường phái Tân cổ điển nửa đầu thế kỷ XX thì vai trò của nhà nước cũng không được đề cập nhiều hơn chút nào. 
Các học giả tiêu biểu của trường phái này, Robert Lucas, F. Muth, cùng quan điểm với hai nhà khai sáng trường phái cổ điển, không nhìn nhận nhà nước có ảnh hưởng to lớn đến phát triển kinh tế. Rõ ràng, kể từ khi CNTB ra đời cho đến bây giờ, ở hầu hết quốc gia, khu vực tư nhân vẫn là khu vực sản xuất chủ chốt trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ. Nên có cơ sở thực tiễn để nhiều học giả cho rằng trong khu vực đó tồn tại một cơ chế phân bổ nguồn lực hữu hiệu mà không cần sự can thiệp của chính phủ. 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng hiện đại - điểm chính 
Phi tập trung: 
- Phân cấp thuế 
- Phân cấp chi 
- Phân cấp cung cấp hàng hóa công 
“Vote with feet” 
“Free-rider” 
Phí người sử dụng (User Fee) 
Nợ công 
Tư tưởng hiện đại - điểm chính 
Ngân sách theo chương trình và mang tính trung hạn; 
Kết hợp ngân sách với hoạch định phát triển quốc gia; 
Mức độ minh bạch ngày càng cao 
Ngoài kiểm soát và tuân thủ, còn hướng đến hiệu suất và hiệu quả 
Mang tính cạnh tranh (cạnh tranh với thị trường tư, cạnh tranh giữa chính quyền địa phương,) 
Tư tưởng hiện đại 
Một khía cạnh không thể bỏ qua khi bàn đến tài chính công hiện đại là thu nhập công trong trường hợp chính thể liên bang. 
Tại đây có rất nhiều đơn vị chính quyền được phép thu thuế và cung cấp hàng hóa công. Từ đó nảy sinh tư tưởng phi tập trung hóa và phân cấp tài chính. 
Phi tập trung hóa tài chính là việc chính quyền trung ương không dành toàn bộ thu nhập công về mình mà phân chia một phần cho chính quyền địa phương. 
Phân cấp tài chính là việc CQTW trao cho CQĐP quyền thu để cung cấp những hàng hóa công ĐP 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng hiện đại 
Đức Giáo hoàng John Paul II đã có quan điểm cho rằng: “Cộng đồng tầng lớp bên trên không nên can thiệp vào đời sống nội bộ của cộng đồng tầng lớp thấp dưới mà nên hỗ trợ khi họ cần và giúp phối hợp hoạt động của họ với hoạt động của phần xã hội còn lại, luôn trên quan điểm vì lợi ích chung ” [1] 
 [1 ] Public Finance , 4th Edition, Harvey S. Rosen, IRWIN 1995, page 507 . 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng hiện đại 
Trong chính thể liên bang có trao quyền tự chủ tài chính rộng rãi cho chính quyền địa phương, cư dân ở mỗi vùng lãnh thổ sẽ phân tích tương quan giữa số thuế nộp cho chính quyền địa phương và hàng hóa công do chính quyền địa phương cung cấp. Qua đó họ sẽ tự động di chuyển đến những nơi mà họ cho rằng tương quan này là tối ưu. Hiện tượng di chuyển nói trên được gọi là hành động bỏ phiếu bằng chân (vote with feet). 
Trong trường hợp chính thể thống nhất phi liên bang, phi tập trung hóa được đề cập đến với một mức độ kém hơn. 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng hiện đại 
Một khía cạnh lịch sử khác của thu nhập công hiện đại là hai vấn đề (1) người hưởng thụ không trả tiền (free rider) và (2) lệ phí người sử dụng (user fee). 
Trường phái đề cập đến những vấn đề trên là trường phái Lựa chọn công (Public Choice) gồm các nhà chính trị học và kinh tế học của Virginia Polytechnic Institute (Viện Bách khoa Virginia) và Đại học Rochester-New York như: James Buchanan – giải Nobel năm 1986, Gordon Tullock, Duncan Blachk, Anthony Downs, William Niskanen, Albert Breton, Robert Tollison và T. Borcheding. 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng hiện đại 
(i) J. Buchanan cho rằng: “ ai ai cũng có xu hướng cho mình trở thành một người hưởng thụ không trả tiền, một trường hợp được miễn trừ, tức là vẫn được hưởng thụ các lợi ích của một thứ của cải tài sản tiêu dùng chung mà chẳng phải góp chút gì vào chi phí.” [1] . 
	 Each person will try to get the benefit of a public good without paying for it. That is, each person will try to get a “free ride” at the expense of others who do pay. 
Tâm lý hưởng thụ miễn phí cho thấy tính thiếu công bằng và kém hiệu quả trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ công. 
 (i) Lệ phí người sử dụng không thuần túy là mang ý nghĩa một khoản thu nhập công mà là một biện pháp kinh tế nâng cao ý thức cộng đồng cho người dân.  
[1] Lịch sử tư tưởng kinh tế , tập 2: Các tác giả đương đại, A. Gélédan chủ biên, bản tiếng Việt, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội 1996, trang 532. 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng hiện đại 
Vấn đề người hưởng thụ không trả tiền và lệ phí người sử dụng đặc biệt đáng được quan tâm tại các quốc gia đang chuyển đổi từ cơ chế cung cấp, kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. 
Ở những quốc gia này, ý niệm về việc hưởng thụ không trả tiền ít nhiều đã được hình thành nên khi chuyển sang cơ chế trao đổi ngang giá đã có những cú sốc đối với những tầng lớp người vốn từng sống trong sự bao cấp của chính phủ. 
Ở một thái cực khác, chính phủ thoạt đầu dè dặt ấn định lệ phí và phí, sau đó lại rơi vào tình trạng thiếu kiểm soát những khoản lệ phí, phí do các cấp chính quyền bên dưới đặt ra. 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Joseph Stiglizt 
Tài chính công ngày càng có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Ông nói: “Thâm hụt ngân sách liên bang đi kèm đã báo động các nhà kinh tế thuộc tất cả các trường phái chính trị và tri thức. Vì vậy, không còn nhiều thời gian để tìm hiểu xem lấy đâu ra tiền để trang trải mà cần phải có đủ thời gian để xem xét chi tiêu như thế nào.” 
Trong bối cảnh đó, thu nhập công từ các sắc thuế nội địa đôi khi không đủ tài trợ chi những khoản chi khổng lồ của chính phủ. Như vậy, thâm hụt và vay nợ nổi lên thành một vấn đề gay gắt. Không chỉ có quốc gia nghèo mới đi vay nợ mà gần như mọi quốc gia đều đi vay . Nếu so với những giai đoạn trước thì đây cũng chính là những khía cạnh nổi bật của tài chính công hiện đại nói chung và cơ cấu thu nhập công nói riêng. 
QUAN 
 ÑIEÅM 
VEÀ TAØI 
CHÍNH 
 COÂNG 
Tư tưởng mới trong quản lý khu vực công (từ 1980 đến nay) 
Quản trị công mới (New Public Management) 
Good Governance 

File đính kèm:

  • pptbai_giang_tong_quan_ve_tai_chinh_cong_va_quan_ly_tai_chinh_c.ppt