Ảnh hưởng của sáng kiến xanh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Nghiên cứu lý thuyết

Bài viết hệ thống hóa cơ sở lý luận về các sáng kiến xanh trong hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp, đồng thời phân tích và đánh giá ảnh hưởng của sáng kiến xanh đến hoạt động

kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy ứng dụng các sáng kiến xanh

có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở các lĩnh vực như hoạt

động sản xuất, tài chính, marketing và môi trường. Cụ thể, các sáng kiến xanh góp phần giúp

doanh nghiệp tiết kiệm chi phí hoạt động, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, thu hút khách

hàng tiềm năng, củng cố sự trung thành của các khách hàng hiện hữu, nâng cao năng lực

cạnh tranh của doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững.

pdf 19 trang kimcuc 4660
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của sáng kiến xanh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Nghiên cứu lý thuyết", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của sáng kiến xanh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Nghiên cứu lý thuyết

Ảnh hưởng của sáng kiến xanh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Nghiên cứu lý thuyết
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Trang chủ của tạp chí: 
Ảnh hưởng của sáng kiến xanh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: 
nghiên cứu lý thuyết
The impact of green initiatives on firm performance: a literature review
Nguyễn Đỗ Quyên1
Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, Việt Nam
Ngày nhận: 06/03/2020; Ngày hoàn thành biên tập: 17/04/2020; Ngày duyệt đăng: 28/04/2020
Tóm tắt
Bài viết hệ thống hóa cơ sở lý luận về các sáng kiến xanh trong hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp, đồng thời phân tích và đánh giá ảnh hưởng của sáng kiến xanh đến hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy ứng dụng các sáng kiến xanh 
có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở các lĩnh vực như hoạt 
động sản xuất, tài chính, marketing và môi trường. Cụ thể, các sáng kiến xanh góp phần giúp 
doanh nghiệp tiết kiệm chi phí hoạt động, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, thu hút khách 
hàng tiềm năng, củng cố sự trung thành của các khách hàng hiện hữu, nâng cao năng lực 
cạnh tranh của doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững.
Từ khóa: Sáng kiến xanh, Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Abstract
This paper provides a literature review of green initiatives in company’s business activities 
and analyses the impacts of green initiatives on firm performance. The research results 
show that green initiatives have positive impacts on firm performance in terms of operating, 
financial, marketing performance and environmental performance. Specifically, green 
initiatives help save the operational costs, save the environment and the eco system, attract 
potential customers, sustain the loyalty of existing customers, enhance business competitive 
advantages and support companies in developing towards of sustainable development.
Keywords: Green initiatives, Firm performance
1 Tác giả liên hệ: quyendn@ftu.edu.vn
Journal of International Economics and Management
ISSN 1859 - 4050
Đ
ẠI
 H
ỌC
 NGOẠI THƯƠNG
FOREIGN TRADE UNIVE
RSIT
Y
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
T Ạ P C H Í
QUẢN LÝ VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 127 (4/2020), 1-19
1Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
1. Đặt vấn đề
Thảm họa thiên nhiên và biến đổi khí hậu đang ngày càng trở thành mối lo ngại toàn cầu. 
Thỏa thuận quốc tế đầu tiên về biến đổi khí hậu theo khung Công ước của Liên hợp quốc là 
Hiệp định Kyoto 1997, trong đó, các thành viên tham gia thỏa thuận cam kết sẽ đặt ra các 
mục tiêu giảm lượng phát thải ở các quốc gia thành viên này. Năm 2015, tại Hội nghị về biến 
đổi khí hậu tại Paris (gọi tắt là COP 21), Thỏa thuận Paris đưa các quốc gia đến một nỗ lực 
chung để đối phó và thích nghi với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đặc biệt, sẽ tăng cường 
hỗ trợ các nước đang phát triển cùng tham gia. Thỏa thuận Paris hướng đến mục tiêu kêu 
gọi toàn cầu ứng phó với biến đổi khí hậu bằng cách giữ nhiệt độ toàn cầu tăng tối đa là 2°C, 
tương đương với 44 GT lượng phát thải khí CO2 một năm. Bên cạnh đó, thỏa thuận cũng tập 
trung tăng cường khả năng ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu của các quốc gia. Để 
đạt được những mục tiêu này, cần có nguồn tài chính phù hợp, thiết kế công nghệ mới và đẩy 
mạnh xây dựng năng lực, đồng thời cần có những hành động hỗ trợ đối với các nước đang 
phát triển và các nước dễ bị ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Tăng trưởng xanh không chỉ là 
chiến lược phát triển của các nước phát triển, mà đã trở thành xu hướng phát triển của các 
quốc gia đang phát triển.
Tuy nhiên, để đạt được tăng trưởng xanh, các quốc gia không thể phủ nhận vai trò của 
doanh nghiệp trong quá trình phát triển của các nền kinh tế trên thế giới. Nói cách khác, hiệu 
quả hoạt động xanh của doanh nghiệp là nền móng của nền kinh tế xanh tại một quốc gia. 
Do đó, để đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh của quốc gia, các doanh nghiệp cần hướng tới 
các sáng kiến kinh doanh xanh. Dưới áp lực cạnh tranh, từ cộng đồng và các quy định luật 
pháp hiện hành, thì cân bằng hoạt động kinh tế với hoạt động môi trường đã trở thành vấn 
đề cấp bách với các doanh nghiệp ở các ngành khác nhau (Chen & cộng sự, 2013). Hiện nay, 
các vấn đề về môi trường đã trở thành mối quan tâm lớn của các doanh nghiệp (McKinsey & 
company, 2010). Do đó, thành công trong giải quyết các vấn đề liên quan đến môi trường sẽ 
tạo ra những cơ hội mới cho doanh nghiệp để đạt được những giá trị phát triển bền vững và 
cơ hội cạnh tranh mới trong bối cảnh môi trường kinh doanh thay đổi như hiện nay (Kurdve 
& cộng sự, 2014; Tseng & cộng sự, 2014b; Shen & cộng sự, 2013; Tseng & cộng sự, 2015).
Có thể nói, tăng trưởng xanh được coi là chiến lược thông minh đối với phát triển bền 
vững của doanh nghiệp và là tiền đề cho nền kinh tế xanh của từng quốc gia. Để đạt được 
tăng trưởng xanh, các doanh nghiệp cần áp dụng các sáng kiến xanh trong kinh doanh nhằm 
đạt được mục tiêu phát triển bền vững của doanh nghiệp. Sáng kiến xanh có thể được áp 
dụng ở các hoạt động kinh doanh khác nhau của doanh nghiệp, ví dụ như marketing, quản lý 
chuỗi cung ứng, cải tiến sản phẩm v.v nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ tác động tiêu cực đến 
môi trường tự nhiên (McKinsey & Company, 2010). Tuy nhiên, áp dụng sáng kiến xanh cũng 
đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư chi phí nhất định và không phải doanh nghiệp nào cũng 
nhận thức được ảnh hưởng tích cực của các sáng kiến xanh đến hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp. Vì vậy, có rất nhiều doanh nghiệp còn chưa sẵn sàng áp dụng sáng kiến xanh 
trong hoạt động kinh doanh của mình. Mục đích nghiên cứu của bài viết này là hệ thống cơ 
sở lý luận về sáng kiến xanh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời phân 
2 Số 127 (4/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
tích, đánh giá ảnh hưởng của sáng kiến xanh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 
Từ những ảnh hưởng tích cực của sáng kiến xanh đối với hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp, nghiên cứu đề xuất các doanh nghiệp Việt Nam nên xem xét áp dụng các sáng kiến 
xanh này vào hoạt động kinh doanh vì mục tiêu xây dựng nền kinh tế xanh hướng tới nền 
kinh tế tăng trưởng bền vững của quốc gia.
2. Tổng quan về sáng kiến xanh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
2.1 Khái niệm về sáng kiến xanh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Sáng kiến xanh có thể được hiểu là đổi mới các quy trình sản xuất, kinh doanh của doanh 
nghiệp bằng việc sử dụng tối thiểu nguồn tài nguyên thiên nhiên trong suốt vòng đời trên 
mỗi đơn vị sản phẩm (bao gồm cả vật liệu năng lượng và diện tích bề mặt) và hạn chế phát 
thải các chất độc hại ra ngoài môi trường nhằm tạo ra hàng hóa, dịch vụ và hệ thống quản lý 
có giá cả cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng và đảm bảo chất lượng cuộc 
sống cho con người (Reid & Miedzinski, 2008). Chen & cộng sự (2006) định nghĩa sáng kiến 
xanh là sự đổi mới phần cứng hoặc phần mềm liên quan đến đổi mới các sản phẩm xanh hoặc 
quy trình xanh, thiết kế sản phẩm xanh hoặc quản lý môi trường của doanh nghiệp, bao gồm 
đổi mới công nghệ nhằm tiết kiệm năng lượng, ngăn ngừa ô nhiễm, tái chế chất thải. OECD 
(2009) đã khái quát lại định nghĩa về sáng kiến xanh: “Là triển khai sản xuất các sản phẩm 
(hàng hóa và dịch vụ) mới hoặc việc doanh nghiệp cải tiến đáng kể các quy trình, hoạt động 
marketing, cơ cấu tổ chức và sắp xếp thể chế nhằm mục đích cải thiện môi trường và giảm 
thiểu các tác động xấu đến môi trường”.
Như vậy, có thể hiểu sáng kiến xanh là tất cả các sáng kiến liên quan đến hoạt động kinh 
doanh của doanh nghiệp nhằm phát triển và áp dụng các quy trình cải tiến hoặc đổi mới quy 
trình, sản phẩm, kỹ thuật và hệ thống quản lý với mục tiêu cuối cùng là góp phần giảm thiểu 
các tác động tiêu cực đến môi trường để đạt được mục tiêu sinh thái. Các sáng kiến này liên 
quan đến quy trình thiết kế sản phẩm, mua sắm nguyên vật liệu và sản xuất sản phẩm, phân 
phối sản phẩm ra thị trường và quy trình xử lý các vấn đề môi trường sau bán hàng. Cụ thể, 
các sáng kiến xanh bao gồm các hoạt động cải tiến sản phẩm xanh, thiết kế sản phẩm xanh, 
mua sắm và quản trị chuỗi cung ứng sản phẩm ra thị trường, logistic ngược, marketing xanh, 
quảng cáo sản phẩm xanh và nhãn sinh thái.
2.2 Nội dung sáng kiến xanh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
2.2.1 Quản trị chuỗi cung ứng xanh
Quản trị chuỗi cung ứng xanh (Green Supply Chain Management - GSCM) được định nghĩa 
là các hoạt động liên quan đến mua sắm xanh và tái cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp (Chan & 
cộng sự, 2012). Nói cách khác, GSCM được hiểu là hoạt động quản trị của doanh nghiệp từ 
khâu mua sắm vật liệu thô đến giao sản phẩm cuối cùng để đảm bảo môi trường không bị ảnh 
hưởng. Ví dụ, lựa chọn vật liệu thân thiện với môi trường, đóng gói hàng hóa xanh, v.v Rao 
(2002) chia hoạt động quản trị chuỗi cung ứng xanh thành hai phần: quản trị môi trường bên 
trong và môi trường bên ngoài. Quản trị môi trường bên trong tập trung vào các hỗ trợ và cam 
3Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
kết bên trong doanh nghiệp đối với hoạt động quản trị chuỗi cung ứng xanh nhằm tuân thủ các 
quy định, hệ thống quản lý môi trường đang triển khai bên trong tổ chức (Zhu & Sarkis, 2004). 
Quản trị môi trường bên ngoài liên quan tới xanh hóa các nhà cung cấp để họ cùng tham gia 
với doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu về môi trường (Bowen & cộng sự, 2001; Rao, 
2002; Hamner, 2006). Hoạt động này cũng bao gồm mua sắm xanh, hợp tác với khách hàng, đạt 
được các yêu cầu về môi trường, tái cơ cấu đầu tư và ứng dụng các thiết kế sản phẩm thân thiện 
với sinh thái (Rao & Holt, 2005) và cải tiến sản phẩm xanh (Chen & cộng sự, 2013).
2.2.2 Logistic ngược
Logistic ngược (Reverse logistics) là khâu cuối cùng trong vòng đời sản phẩm, bao gồm 
các bước liên quan đến tái chế, tái sử dụng và duy trì sự bền vững của sản phẩm. Logistic 
ngược chính là một trong những yếu tố quan trọng trong hoạt động quản trị chuỗi cung ứng 
xanh và thực tiễn ứng dụng logistic ngược cho thấy hoạt động của doanh nghiệp thân thiện 
với hệ sinh thái và hướng tới phát triển bền vững, từ đó, tạo sự tin tưởng và an tâm của người 
tiêu dùng đối với doanh nghiệp (Hazen & cộng sự, 2012).
2.2.3 Marketing xanh
Marketing xanh (Green marketing) là hoạt động marketing của doanh nghiệp gắn liền với 
những yêu cầu về đạo đức và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Dheeraj & Vishal, 2012). 
Ko & cộng sự (2013) cho rằng marketing xanh liên quan đến các hoạt động xây dựng hình 
ảnh doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực tổng thể của doanh nghiệp. Hình ảnh xanh của 
doanh nghiệp được xây dựng bằng nhiều từ khóa khác nhau như thân thiện với hệ sinh thái, 
tái chế được, sản phẩm xanh hay bao bì sản phẩm thân thiện với môi trường.
2.2.4 Quảng cáo xanh
Quảng cáo xanh (Green advertisement) là các chiến lược truyền thông xanh tập trung 
quảng bá các đặc điểm của sản phẩm thân thiện với môi trường nhằm thu hút khách hàng 
mua các các sản phẩm xanh hay các sản phẩm thân thiện với hệ sinh thái (Smith, 2012). Nhờ 
bỏ quảng cáo xanh của các doanh nghiệp cho nên các sản phẩm xanh ngày càng thu hút các 
khách hàng. Truyền thông bằng miệng là một trong những phương tiện truyền thông quan 
trọng của quảng cáo xanh nhằm quảng bá sản phẩm xanh và thúc đẩy nhận thức của người 
tiêu dùng (Chen & cộng sự, 2013).
2.2.5 Nhãn sinh thái
Nhãn sinh thái (Eco-labeling) là logo hay biểu tượng trên sản phẩm của doanh nghiệp, 
thể hiện được mối quan tâm về môi trường của doanh nghiệp. Có thể nói, nhãn sinh thái là 
một trong những phương tiện quan trọng của chiến lược marketing các sản phẩm xanh của 
doanh nghiệp. Bản thân nhãn sinh thái hay còn gọi là nhãn môi trường là công cụ hữu ích để 
các doanh nghiệp đưa ra thông điệp xanh với khách hàng, tự cam kết hướng tới hoạt động 
sản xuất kinh doanh bền vững, giải quyết các vấn đề liên quan đến môi trường. Các doanh 
nghiệp cần đẩy mạnh các chiến lược liên quan đến xây dựng thương hiệu xanh, dán nhãn 
sinh thái cho sản phẩm và đóng gói xanh nhằm khuyến khích xu hướng tiêu dùng ngày càng 
xanh hơn của khách hàng (Juwaheer & cộng sự, 2012).
4 Số 127 (4/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
2.2.6 Cải tiến sản phẩm xanh
Cải tiến sản phẩm xanh (Green product innovation) hay còn gọi là đổi mới sản phẩm xanh 
là hoạt động cải tiến và đổi mới sản phẩm của doanh nghiệp để sản phẩm xanh hơn, thân 
thiện với hệ sinh thái hơn, tiết kiệm nhiên liệu hơn và giảm tác động tiêu cực tới môi trường. 
Đổi mới hay cải tiến sản phẩm đã trở thành chìa khóa dẫn đến thành công của các doanh 
nghiệp ngày nay và đổi mới xanh không chỉ tạo nên khác biệt cho doanh nghiệp mà còn 
đẩy mạnh xanh hóa cả ngành công nghiệp, từ đó cải thiện hoạt động môi trường của doanh 
nghiệp. Một khi nhu cầu của thị trường hướng đến các sản phẩm xanh bền vững thì doanh 
nghiệp tất yếu sẽ thành công (Lin & cộng sự, 2013).
3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Hoạt động kinh doanh là thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư 
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các hoạt động dịch vụ trên thị trường nhằm 
mục đích sinh lời. Có thể hiểu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ các nghiệp 
vụ phát sinh trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Hoạt động kinh 
doanh của doanh nghiệp được phản ánh qua các chuỗi hoạt động của doanh nghiệp như hoạt 
động sản xuất, marketing, tài chính và môi trường. Để đánh giá hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp, có thể sử dụng chỉ tiêu kinh tế định tính hoặc định lượng của doanh nghiệp 
hoặc đánh giá thông qua báo cáo tài chính. Nói cách khác, hiệu quả hoạt động kinh doanh 
của doanh nghiệp có thể được đánh giá thông qua hiệu quả các hoạt động chính của doanh 
nghiệp, bao gồm hiệu quả tài chính, hiệu quả hoạt động, hiệu quả môi trường và hiệu quả 
marketing (Xu & cộng sự, 2005). Như vậy, để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp khi áp dụng các sáng kiến xanh trong hoạt động kinh doanh, tác giả sẽ phân 
tích ảnh hưởng của sáng kiến đến các hoạt động kinh doanh nói trên của doanh nghiệp. Trên 
thế giới, phương pháp đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh trong các nghiên cứu được 
thực hiện thông qua bảng hỏi, sử dụng các tiêu chí đánh giá định tính đối với hiệu quả tài 
chính, hiệu quả hoạt động, hiệu quả marketing và hiệu quả môi trường.
Hình 1. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Nguồn: Xu & cộng sự (2005)
5Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
3.1 Hiệu quả tài chính
Hiệu quả tài chính phản ánh điều kiện tài chính của công ty trong một giai đoạn nhất 
định. Với mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản cho chủ sở hữu doanh nghiệp, việc doanh nghiệp 
đạt được hiệu quả tài chính là một trong những cách để doanh nghiệp đáp ứng được kỳ vọng 
của nhà đầu tư. Hiệu quả tài chính có thể được đo lường thông qua hiệu quả sinh lời của giá 
trị thị trường và tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp.
Khả năng sinh lời của doanh nghiệp là khả năng tìm kiếm lợi nhuận. Lợi nhuận có thể 
được hiểu là những gì còn lại từ doanh thu sau khi chi trả các chi phí khác nhau như chi phí 
sản xuất và chi phí hoạt động. Khả năng sinh lời đo lường khả năng tạo ra lợi nhuận của 
doanh nghiệp trong quá k ...  là một trong những sáng kiến xanh giúp doanh nghiệp tạo ra 
lợi thế cạnh tranh. Kết quả nghiên cứu cho thấy quản trị chuỗi cung ứng xanh và cách thức 
kinh doanh xanh hoặc nhãn sinh thái có mối quan hệ tích cực với hiệu quả hoạt động công ty 
(Chan & cộng sự, 2012). Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng quản trị chuỗi cung ứng xanh 
và hiệu quả hoạt động của công ty có mối quan hệ cùng chiều với nhau (Hervani & cộng sự, 
2005). Hiệu quả hoạt động của công ty phụ thuộc vào sự đổi mới và phương thức lãnh đạo 
chuyển đổi (Samad, 2012). Nếu doanh nghiệp tập trung vào tăng cường sản phẩm xanh thì 
cần hướng đến tính bền vững về tự nhiên và đổi mới sản phẩm, từ đó sẽ tăng cường hiệu quả 
hoạt động (Lin & cộng sự, 2013). Các doanh nghiệp áp dụng sáng kiến xanh nhằm thực hiện 
đổi mới và thiết kế sản phẩm xanh được ghi nhận đạt hiệu quả hoạt động tốt hơn (Camison & 
Lopez, 2012). Bên cạnh đó, người tiêu dùng nhận thức nhất định về sản phẩm đạt tiêu chuẩn 
xanh, thân thiện với môi trường (Rettie & cộng sự, 2012). Lựa chọn sở thích thương hiệu 
xanh thường bị ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như tuổi, thu nhập, giới tính và giáo dục (Mourad 
& Ahmed, 2012). Như vậy, có thể thấy, các sáng kiến xanh trong hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, để 
hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững góp phần xây dựng nền kinh tế xanh - nền kinh tế 
phát triển bền vững, các doanh nghiệp nên nghiên cứu và áp dụng các sáng kiến xanh trong 
hoạt động kinh doanh.
Hạn chế của nghiên cứu là mới chỉ hệ thống hóa cơ sở lý luận về sáng kiến xanh và phân 
tích, đánh giá ảnh hưởng của các sáng kiến xanh đến hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp dựa trên các kết quả nghiên cứu trên thế giới mà chưa đề cập đến bối cảnh tại Việt 
Nam. Ngoài ra, do hạn chế về dữ liệu, nên thời gian phân tích chỉ được thực hiện trong giai 
đoạn (2000-2016). Hướng nghiên cứu trong tương lai liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của 
đề tài có thể mở rộng ở khía cạnh nghiên cứu thực nghiệm về việc áp dụng các sáng kiến 
xanh này trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và ảnh hưởng đến hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam. Kết quả nghiên cứu theo cách tiếp cận này sẽ thúc 
đẩy các doanh nghiệp phát triển theo hướng xanh nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng bền 
vững, tạo cơ sở vững chắc phát triển nền kinh tế xanh tại Việt Nam.
Bài nghiên cứu này thuộc khuôn khổ Đề tài cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo, mã số B2018 - 
NTH -20.
15Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Tài liệu tham khảo
Albino, V., Dangelico, R. & Pontrandolfo, P. (2012), “Do inter-organizational collaborations enhance 
a firm's environmental performance: a study of the largest US companies?”, Journal of 
Cleaner Production, Vol. 37, pp. 304 - 315.
Ar Ilker, M. (2012), “The impact of green product innovation on firm performance and competitive 
capability: the moderating role of managerial environmental concern”, Procedia Social and 
Behavioral Sciences, Vol. 62, pp. 854 - 864.
Azevedo, S., Carwalho, H. & Machado, V. (2011), “The influence of green initiatives on supply 
chain performance: a case study approach”, Transportation Research Part E: Logistics and 
Transportation Review, Vol. 47, pp. 850 - 871.
Borin, N. & Cerf, C. (2011), “Consumer effects of environmental impact on product labeling”, 
Journal of Consumer Marketing, Vol. 28 No. 1, pp 76 - 86.
Bose, L. & Pal, R. (2012), “Do green supply chain management impact stock prices of the firm”, 
Decision Support System, Vol. 52, pp. 624 - 634.
Bowen, F.E., Cousins, P.D., Lamming, R.C. & Faruk, A.C. (2001), “The role of supply management 
capabilities in green supply”, Journal of Production and Operation Management Society, 
Vol. 10 No. 2, pp. 174 - 189.
Camino, J. R. (2007), “Re-evaluating green marketing strategy: a stakeholder perception”, European 
Journal of Marketing, Vol. 41 No. 11-12, pp. 1328 - 1358.
Camison, C. & Lopez, A. (2012), “Organization innovation as an enabler of technology, innovation 
capabilities and firm performance”, Journal of Business Research, Vol. 67 No. 1, pp 2891-
2902.
Caniels, M. (2013), “Participation of suppliers in the greening supply chain: an empirical analysis 
of German automotive suppliers”, Journal of Purchasing and Supply Management, Vol. 19, 
pp. 134 - 143.
Carrion-Flores, C.E. & Innes, R. (2010), “Environmental innovation and environmental performance”, 
Journal of Environmental Economics and Management, Vol. 59, pp 27 - 42.
Chan, R.Y., He, H., Chan, H.K. & Wang, W.Y. (2012a), “Environment orientation and corporate 
performance: the mediation mechanism of green supply chain management and the 
moderating effect of competitive intensity”, Industrial Marketing Management, Vol. 41 No. 
4, pp. 621 - 630.
Chen, Y.S., Lai, S.B. & Wen, C.T. (2006), “The influence of green innovation performance on 
corporate advantage in Taiwan”, Journal of Business Ethics, Vol. 67 No. 4, pp. 331 - 339.
Chen, Y.S., Lin, C.L. & Chang, C.H. (2013), “The influence of green wash on green word-of-mouth 
(green WOM): the mediation effects of green perceived quality and green satisfaction”, 
Quality & Quantity: International Journal of Methodology, Vol. 48 No. 5, pp. 2411 - 2425.
Cronin Jr., J.J., Smith, J.S., Gleim, M.R., Ramirez, E. & Martinez, J.D. (2011), “Green marketing 
strategies: an examination of stakeholders and the opportunities they present”, Journal of 
Academy of Marketing Science, Vol. 39 No. 1, pp 158 - 174.
Dheeraj, N. & Vishal, N. (2012), “An overview of green supply chain management in India”, 
Research Journal of Recent Sciences, Vol. 1 No. 6, pp. 77 - 82. 
16 Số 127 (4/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Diabat, A. & Govindan, K. (2011), “An analysis of the drivers affecting the implementation of green 
supply chain management”, Resour Conserv Recycl, Vol. 55 No. 6, pp. 659 - 667.
Fisk, G. (2010) “Green marketing: a multiplier for appropriate technology transfer”, Journal of 
Marketing Management, Vol. 17 No. 6, pp. 657 - 676. 
Fraj, E., Martinez, E. & Matute, J. (2011), “Green marketing strategy and the firm's performance: 
the moderating role of environmental culture”, Journal of Strategic Marketing, Vol. 19 No. 
4, pp. 339 - 355.
Fraj, E., Martinez, E. & Matute, J. (2013), “Green marketing in B2B organizations: an empirical 
analysis from the natural resources-based view of the firm”, Journal of Business and 
Industrial Marketing, Vol. 28 No. 5, pp. 396 - 410.
Gleim, M. R. (2013), “Against the green: a multimethod examination of the barriers to green 
consumption”, Journal of Retailing, Vol. 44, pp. 44 - 56.
Green Jr., K.W., Whitten, D. & Inman, R.A. (2012), “Aligning marketing strategies throughout the 
supply chain to enhance performance”, Indudustrial Marketing Management, Vol. 41, pp. 
1008 - 1018.
Grimmer, M. & Wooley, M. (2014) “Green marketing messages and consumers' purchase intention: 
promoting personal versus environmental benefits”, Journal of Marketing Communication, 
Vol. 20 No. 4, 231 - 250.
Hamner, B. (2006), “Effects of green purchasing strategies on supplier behaviour”, In: Sarkis, J. 
(Ed.), Greening the Supply Chain, Springer, London, online ISBN: 978-1-84628-299-7, pp. 
25 - 37.
Hansmann, K.W. & Claudia, K. (2001), “Environmental management policies”, In: Sarkis, J. (Ed.), 
Green Manufacturing and Operation: From Design to Delivery and Back, Sheffield, UK: 
Greenleaf Publishing. 
Hazen, B. T., Wu, Y., Cegielski, C. G., Jones-Farmer, L. A. & Hall, D. J. (2012), “Consumer reaction 
to the adoption of green reverse logistics, the international review of retail”, The International 
Review of Retail Distribution and Consumer Research, Vol. 22 No. 4, pp. 417 - 434.
Hervani, A., Helms, M. & Sarkis, J. (2005), “Performance measurement for green supply chain 
management”, Benchmark International Journal, Vol. 12 No. 4, pp. 330 - 353.
Juwaheer, T.D., Pudaruth, S. & Noyaux, M.E. (2012), “Analyzing the impact of green marketing 
strategies on consumer purchasing patterns in Mauritius”, World Journal of Entrepreneurship 
Management Sustainable Development, Vol. 8 No. 1, pp. 36 - 59.
Kasilingam, L., Selvam, M. & Venkateswar, S. (2015), “An Empirical Examination of Returns on 
Select Asian Stock Market Indices”, Journal of Applied Finance and Banking, Vol. 5, pp 
115 - 119.
Ko, E., Hwang, Y.K. & Kim, E.Y. (2013), “Green marketing functions in building a corporate image 
in the retail setting”, Journal of Business Resources, Vol. 66 No. 10, pp. 1709 - 1715.
Kristrom, B. & Lundgreen, T. (2003), “Abatement investments and green goodwill”, Applied 
Economics, Vol. 35 No. 18, pp. 1915 - 1921.
Kurdve, M., Zackrisson, M., Wiktorsson, M. & Harlin, U. (2014), “Lean and green integration 
into production system models experiences from Swedish industry”, Journal of Cleaner 
Production, Vol. 85, pp. 180 - 190.
17Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Lin, R.J., Tan, K.H. & Geng, Y. (2013), “Market demand, green product innovation, and firm 
performance: evidence from Vietnam motorcycle industry”, Journal of Cleaner Production, 
Vol. 40, pp. 101-107.
Luthra, S., Kumar, V., Kumar, S. & Haleem, A. (2011), “Barriers to implementing green supply chain 
management in automobile industry using interpretive structured modeling techniques: an 
Indian perspective”, Journal of Industrial and Engineering and Management, Vol. 4 No. 2, 
pp. 231 - 257.
Mathiyazhagan, K., Govindan, K., NoorulHaq, A. & Geng, Y. (2013), “An ISM approach for the 
barrier analysis in implementing green supply chain management”, Journal of Cleaner 
Production, Vol. 47, pp. 283 - 297.
McKinsey and Company (2010), “The road to 2020 and beyond: what's driving the global automotive 
industry”, tại https://www.mckinsey.com/industries/automotive-and-assembly/our-insights/
the-road-to-2020-and-beyond-whats-driving-the-global-automotive-industry (truy cập ngày 
26/12/2019).
Mourad, M. & Ahmed, Y.S.E. (2012), “Perception of the green brand in an emerging innovative 
market”, European Journal of Innovation Management, Vol. 15 No. 4, pp. 514 - 537.
OECD (2009), "Sustainable manufacturing and eco-innovation: towards a green economy", tại https://
www.oecd.org/env/consumption-innovation/42957785.pdf (truy cập ngày 26/12/2019).
Panda, L. K. & Goswami, S. (2009), “Eco-labels and its environmental countenance”, Orissa Review, 
October 2009, tại 
Pages64-71.pdf, (truy cập ngày 26/12/2019) .
Peattie, K. & Crane, A. (2005), “Green marketing: legend, myth, farce, prophesy?”, Qualitative 
Marketing Research, Vol. 8 No. 4, pp. 357 - 370.
Polonsky, M.J. & Rosenberger, P.J. (2001), “Reevaluating green marketing: a strategic approach”, 
Business Horizon, Vol. 44 No. 5, pp. 21 - 30.
Porter, M.E. (1991), “Towards a dynamic theory of strategy”, Strategic Management Journal, Winter 
Special Issue, Vol. 12, pp. 95 - 117.
Rao, P. (2002), “Greening the supply chain: a new initiative in South East Asia”, International 
Journal of Operation and Production Management, Vol. 22 No. 6, pp. 632 - 655.
Rao, P. & Holt, D. (2005), “Do green supply chains lead to competitiveness and economic 
performance?”, International Journal of Operation & Production Management, Vol. 25 No. 
9, pp. 898 - 916.
Reid, A. & Miedzinski, M. (2008), “Eco-innovation”, Final Report for Sectoral Innovation Watch, 
Brussels, Technopolis Group, DOI:10.13140/RG.2.1.1748.0089.
Rettie, R., Burchell, K. & Riley, D. (2012), “Normalizing green behavior: a new approach to 
sustainability marketing”, Journal of Marketing Management, Vol. 28 No. 3, pp. 420 - 444.
Rex, E. & Baumann, H. (2007), “Beyond eco-labels: what green marketing can learn from 
conventional marketing”, Journal of Cleaner Produciton, pp. 567 - 576.
Ross, Westerfield & Jordan (2010), Fundamentals of Corporate Finance, McGraw-Hill Irwin, 9E.
Samad, S. (2012), “The influence of innovation & transformational leadership on organization 
performance”, Procedia Social and Behavioral Sciences, Vol. 57, pp. 486 - 493. 
18 Số 127 (4/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Saxena, R.P. & Khandelwal, P.K. (2008), “Consumer attitudes towards green marketing on an 
exploratory study”, The International Journal of Indian Psychology, Vol. 2, pp. 140 - 146. 
Saxena, R.P. & Khandelwal, P.K. (2012), “Greening of industries for sustainable growth, an 
exploratory study on durable, non-durable & services industries”, International Journal 
Social Economics, Vol. 39 No. 8, pp. 551 - 586. 
Sharma, A. & Iyer, G.R. (2012), “Resource-constrained product development, the implication for 
greenmarketing and green supply chains”, Industrial Marketing Management, Vol. 41, pp. 
599 - 608. 
Shen, L., Olfat, L., Govindan, K., Khodaverdi, R. & Diabat, A. (2013), “A fuzzy multi criteria 
approach for evaluating green suppliers performance in green supply chain with linguistic 
preferences”, Resources, Conservation and Recycle, Vol. 74, pp. 170 - 179.
Siriwardena, S., Hunt, G., Teisl, M.F. & Noblet, C.L. (2012), “Effective environmental marketing of 
green cars: a nested logit approach”, Transportation Research Part D, pp 237 - 242.
Smith, K.T. (2012), “A longitudinal study of green marketing strategies that influence millennial”, 
Journal of Strategic Marketing, Vol. 20 No. 6, pp. 535 - 551.
Tang, E., Fryxell, G. E. & Chow, C.F. (2004), “Visual & verbal communication in the design of eco-
labels for green consumer products”, Journal of International Consumer Marketing, Vol. 16 
No. 4, pp. 85 - 105.
Tseng, M.L., Tan, K., Lim, M., Lin, R.J. & Geng, Y. (2014b), “Benchmarking eco-efficiency in green 
supply chain practices in uncertainty”, Production Planning and Control, Vol. 25 No. 13 - 14, 
pp. 1079 - 1090.
Tseng, M.L., Tan, K. & Chiu, A.S.F. (2015), “Identifying the competitive determinants of firms green 
supply chain capabilities under uncertainty”, Clean Technologies Environmental Policy, Vol. 
18, pp. 1247 - 1262.
Thogersen, J., Haugaard, P. & Olesen, A. (2010), “Consumer responses to eco-labels”, European 
Journal of Marketing, Vol. 44 No. 11-12, pp. 1787 - 1810.
Vinayagamoorthi, V., Murugesan, S. & Kasilingam, L. (2015), “Impact of firms profitability on 
environmental performance: evidence from companies in India”, Mediterranean Journal of 
Social Sciences, Vol. 6 No. 1, pp. 109 - 119.
Whetten, D.A. (1987), “Organizational growth and decline processes”, Annual Review of Sociology, 
Vol. 13, pp. 335 - 358. 
Wouters, M., Anderson, J.C., Narus, J.A. & Wynstra, F. (2009), “Improving sourcing decisions 
in NPD projects: monetary quantification of points of difference”, Journal of Operations 
Management, Vol. 27 No. 1, pp. 64 - 77.
Xu, L.C., Zhu, T. & Lin, Y. (2005), “Politician control, agency problems and ownership reform: 
Evidence from China”, Economics of Transition, Vol. 13 No. 1, pp. 1 - 24.
Zhu, Q. & Sarkis, J. (2004), “Relationships between operational practices and performance among 
early adopters of green supply chain management practices in Chinese manufacturing 
enterprises”, Journal of Operations Management, Vol. 22 No. 3, pp 265 - 289.
19Số 127 (4/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_sang_kien_xanh_den_hoat_dong_kinh_doanh_cua_do.pdf