Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến tiểu vùng khí hậu thành phố Hà Nội

Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của quá trình đô thị lên đặc điểm tiểu vùng khí hậu của Thành

phố Hà Nội. Sự thay đổi nhiệt độ và phân bố mưa được phân tích để tìm ra những dấu hiệu ảnh hưởng của

quá trình đô thị hóa. Kết quả nghiên cứu cho thấy quá trình đô thị hóa góp phần tăng lượng mưa và nhiệt độ

hàng năm ở khu vực đô thị. Các phân tích định tính và định lượng đã cho thấy ảnh hưởng của đô thị hóa tới

các đặc trưng vùng khí hậu. Trong nghiên cứu này, chúng tôi xem xét sự thay đổi lượng mưa và nhiệt độ tại 4

trạm khí tượng thuộc các khu vực đô thị, đô thị vệ tinh và nông thôn. Những kết quả thu được khác nhau từ

các trạm phản ánh rõ sự ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa lên lượng mưa và nhiệt độ ở khu vực nghiên cứu.

pdf 10 trang kimcuc 9560
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến tiểu vùng khí hậu thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến tiểu vùng khí hậu thành phố Hà Nội

Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến tiểu vùng khí hậu thành phố Hà Nội
48 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 8 - Tháng 12/2018
ẢNH HƯỞNG CỦA QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA 
ĐẾN TIỂU VÙNG KHí HậU THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Doãn Huy Phương, Ngô Thị Thủy
Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu
Ngày nhận bài: 12/11/2018; ngày chuyển phản biện: 13/11/2018; ngày chấp nhận đăng: 10/12/2018
Tóm tắt: Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của quá trình đô thị lên đặc điểm tiểu vùng khí hậu của Thành 
phố Hà Nội. Sự thay đổi nhiệt độ và phân bố mưa được phân tích để tìm ra những dấu hiệu ảnh hưởng của 
quá trình đô thị hóa. Kết quả nghiên cứu cho thấy quá trình đô thị hóa góp phần tăng lượng mưa và nhiệt độ 
hàng năm ở khu vực đô thị. Các phân tích định tính và định lượng đã cho thấy ảnh hưởng của đô thị hóa tới 
các đặc trưng vùng khí hậu. Trong nghiên cứu này, chúng tôi xem xét sự thay đổi lượng mưa và nhiệt độ tại 4 
trạm khí tượng thuộc các khu vực đô thị, đô thị vệ tinh và nông thôn. Những kết quả thu được khác nhau từ 
các trạm phản ánh rõ sự ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa lên lượng mưa và nhiệt độ ở khu vực nghiên cứu. 
Từ khóa: Đô thị hóa, tiểu vùng khí hậu, Hà Nội, Việt Nam.
Liên hệ tác giả: Ngô Thị Thủy
Email: tide4586@gmail.com
1. Tổng quan
Biến đổi khí hậu và quá trình đô thị hóa là 
những tác nhân chính gây ảnh hưởng đến các 
yếu tố khí tượng, đặc biệt là lượng mưa và nhiệt 
độ. Ngày nay, sự tăng nhanh của quá trình đô thị 
hóa thường được biểu hiện ở sự tăng trưởng 
dân số, mở rộng không gian đô thị và sự tăng lên 
về số lượng các tòa cao ốc cùng các công trình 
phục vụ cho công nghiệp hóa. Nói cách khác, 
quá trình đô thị hóa là kết quả của việc gia tăng 
mật độ các khu vực đô thị. 
Nhiều ý kiến cho rằng việc này sẽ ảnh hưởng 
đến đặc điểm của các tiểu vùng khí hậu. Các 
nghiên cứu về hiệu ứng đô thị hóa đến mưa và 
các yếu tố khí tượng khác như nhiệt độ, độ ẩm 
[1, 3, 4] chỉ ra rằng những sự thay đổi trong sử 
dụng đất đô thị và nông thôn, đất tưới tiêu và 
đồng cỏ, đất trồng trọt và diện tích rừng có thể là 
những nguyên nhân của sự thay đổi lượng mưa 
và biến đổi khí hậu. Changnon & Huff (1986) cho 
rằng quá trình đô thị hóa có thể dẫn đến sự thay 
đổi trong phân bố mưa. Sự phát triển kinh tế 
cùng với sự gia tăng dân số cũng ảnh hưởng đến 
các điều kiện khí tượng [16]. Lượng mưa giảm 
bởi các quá trình công nghiệp hóa và ô nhiễm 
không khí [8, 12]. Mối quan hệ giữa hiệu ứng đô 
thị hóa và sự thay đổi của nhiệt độ cũng thu hút 
sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và nhà 
khoa học. Nhiều ý kiến cho rằng sự thay đổi của 
nhiệt độ trong khu vực nội đô là cao nhất so với 
các vùng khác [6, 10, 14]. 
Thủ đô Hà Nội thuộc vùng đồng bằng sông 
Hồng, là thành phố lớn thứ hai cả nước với 
7,654 triệu người (năm 2017). Địa hình chủ yếu 
bao gồm đồng bằng, trung du và miền núi. Do 
thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, trong 
năm có bốn mùa rõ rệt, cùng với lượng mưa dồi 
dào trung bình khoảng 1.800mm/năm [15]. 
Là thủ đô của nước Việt Nam, dân số Hà Nội 
tăng dần với 70 nghìn người vào năm 1918 và 
300 nghìn người vào năm 1945. Vào năm 2008, 
Hà Nội được mở rộng bằng việc sáp nhập tỉnh 
Hà Tây và một số khu vực thuộc tỉnh Vĩnh Phúc 
và tỉnh Hòa Bình. Cùng với quá trình đô thị hóa, 
khí hậu Hà Nội cũng thay đổi qua các thập kỷ. 
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh 
giá tác động của quá trình đô thị hóa lên các 
đặc điểm khí hậu địa phương, đặc biệt là xu 
thế lượng mưa và nhiệt độ. Để đánh giá được 
tầm ảnh hưởng của hiệu ứng đô thị hóa lên các 
đặc trưng khí tượng, trước tiên cần phân tích 
sự thay đổi của nhiệt độ và lượng mưa qua các 
thập kỷ. Những thay đổi đặc trưng này được 
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 8 - Tháng 12/2018 
49
phân tích tương ứng với lịch sử phát triển của 
thành phố Hà Nội. Các phân tích định lượng 
cũng được tiến hành nhằm cung cấp những 
bằng chứng thuyết phục về ảnh hưởng của 
đô thị hóa lên tiểu vùng khí hậu. Cơ chế vật 
lý của ảnh hưởng đô thị hóa lên đặc điểm khí 
hậu được phân tích kỹ hơn ở phần thảo luận 
của nghiên cứu này. 
2. Giới thiệu khu vực nghiên cứu
Thủ đô Hà Nội nằm trong khu vực có sông 
Hồng chảy qua, hàng năm Thành phố được bồi 
đắp một lượng phù sa dồi dào. Sau năm 2008, 
Thành phố Hà Nội được mở rộng trở thành đô 
thị trung tâm với diện tích là 3.328,9 km2 và dân 
số là 7,7 triệu người (số liệu năm 2015 của Tổng 
cục Niên giám Thống kê). 
 Sự phát triển của Thành phố Hà Nội gắn liền 
cùng với sự phát triển của lịch sử đất nước. Một 
số dấu mốc quan trọng của quá trình phát triển 
và đô thị hóa của Hà Nội có thể kể đến như sau: 
Sau năm 1954, Hà Nội chính thức là Thủ đô của 
nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được 
mở rộng lần đầu tiên vào năm 1961. Chiến tranh 
chống Mỹ kết thúc vào năm 1975 cùng với việc 
hợp nhất hai miền Nam và Bắc của Việt Nam. Từ 
đó, Hà Nội trở thành Thủ đô của nước Cộng hòa 
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được mở rộng lần 
2 vào năm 1979. Trong suốt thời gian này, nền 
kinh tế Việt Nam vẫn là kinh tế tập trung và chỉ 
chuyển đổi sang kinh tế định hướng xã hội chủ 
nghĩa vào năm 1986 (Đổi mới). Đây là thời điểm 
bắt đầu quá trình đô thị hóa. Tuy nhiên, quá 
Hình 1. Thủ đô Hà Nội, Việt Nam [15]
trình đô thị hóa mạnh thực sự bắt đầu từ năm 
1994. Vào năm 2008, Hà Nội trở thành trung 
tâm văn hóa chính trị với dân số trong khu vực 
đô thị vào khoảng 2,6 triệu người và 7,7 triệu 
người trên phạm vi toàn thành phố.
3. Số liệu
Số liệu đo đạc từ 4 trạm khí tượng trong 
phạm vi Thành phố Hà Nội được dùng để phân 
tích đánh giá ảnh hưởng của đô thị hóa lên nhiệt 
độ và lượng mưa bao gồm: Trạm Láng (hay còn 
gọi là trạm Hà Nội), trạm Hà Đông, trạm Ba Vì 
và trạm Sơn Tây. Trạm Hà Nội thuộc khu vực nội 
đô với mật độ dân số cao; trạm Hà Đông thuộc 
đô thị vệ tinh; trạm Ba Vì và Sơn Tây nằm ở vùng 
nông thôn (Hình 2). Nghiên cứu sử dụng số liệu 
ngày tại 4 trạm nói trên để phân tích (Bảng 1). 
50 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 8 - Tháng 12/2018
Bảng 1. Vị trí và đặc điểm các trạm khí tượng trong thành phố Hà Nội
Trạm Vĩ độ Kinh độ Thời kỳ quan trắc Kiểu số liệu
Hà Nội 21o01’ 105o48’ 1961-2014 Ngày
Hà Đông 20o58’ 105o45’ 1974-2014 Ngày
Ba Vì 21o09’ 105o25’ 1963-2014 Ngày
Sơn Tây 21o08’ 105o30’ 1961-2014 Ngày
Hình 2. Vị trí các trạm khí tượng được lựa chọn cho nghiên cứu 
Hình 3. Biểu đồ diễn biến lượng mưa hàng năm của các trạm khí tượng trên địa bàn Hà Nội
 (1961-2014)
năm
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 8 - Tháng 12/2018 
51
4. Kết quả và nhận xét
4.1. Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa lên 
lượng mưa khu vực
Xu thế mưa
Dữ liệu lượng mưa năm (Hình 3) được tính 
toán trung bình trượt 10 năm để thể hiện xu 
thế chung của cả thập kỷ (Hình 5). Có thể thấy 
rằng, lượng mưa năm trung bình trượt ở 2 trạm 
thuộc khu vực nông thôn (Sơn Tây và Ba Vì) thể 
hiện xu thế giảm qua các thập kỷ. Trong khi đó, 
biến đổi mưa tại các trạm thuộc khu vực đô thị 
(Hà Nội và Hà Đông) khá phức tạp (Hình 5). Quá 
Hình 4. Biểu đồ nhiệt độ và lượng mưa trung bình tháng tại các trạm khí tượng của Hà Nội
trình trung bình trượt của lượng mưa (Hình 5) 
cho thấy có hai thời điểm mà xu thế mưa của 
hai trạm Hà Nội và Hà Đông đột ngột thay đổi. 
Thời điểm đầu tiên là năm 1986 tương ứng 
với thời kỳ Đổi mới của Việt Nam, đặc biệt là tại 
các thành phố lớn. Ở giai đoạn này, lượng mưa 
năm ghi nhận được tại trạm Hà Nội và Hà Đông 
giảm đáng kể. Từ năm 1996, tương ứng với giai 
đoạn sau khi Mỹ gỡ bỏ lệnh cấm vận, lượng 
mưa năm có xu thế tăng nhanh. Nhìn chung, sự 
thay đổi phân bố mưa hàng năm của các trạm 
đo thuộc khu vực đô thị và nông thôn là khác 
nhau khá nhiều. 
Dựa trên sự mở rộng của thành phố, quá 
trình đô thị hóa được đặc trưng bởi sự phát 
triển dân số của khu vực. Số liệu dân số của các 
quận thuộc Thành phố Hà Nội được thu thập từ 
Tổng cục Thống kê Việt Nam cập nhật đến năm 
2013 (https://gso.gov.vn/). 
Trong nghiên cứu này, số liệu mưa ngày 
của 4 trạm khí tượng được thu thập dùng 
cho việc đánh giá tác động của quá trình đô 
thị hóa. Diễn biến và xu thế chung của lượng 
mưa hàng năm được mô tả trên Hình 3 và 
Hình 4. Nhìn chung, mùa mưa ở Thành phố Hà 
Nội bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, lượng 
mưa chiếm khoảng 83-85% tổng lượng mưa 
cả năm. Lượng mưa trung bình hàng năm của 
Thành phố Hà Nội dao động từ 1.600mm ở 
khu vực đô thị (trạm Hà Nội và Hà Đông) đến 
1.950mm ở khu vực nông thôn và miền núi 
(trạm Sơn Tây và Ba Vì). 
 Dữ liệu nhiệt độ cũng được sử dụng để đánh 
giá ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa. Nhiệt 
độ cực đại, cực tiểu và trung bình ngày được thu 
thập từ 4 trạm theo các giai đoạn tương ứng. 
Những tháng nóng nhất ở Hà Nội là từ tháng 6 
đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình khoảng 30oC 
đi kèm với thời tiết mưa ẩm ướt. Những tháng 
lạnh nhất là từ tháng 12 đến tháng 3 với kiểu 
thời tiết hanh khô. Phân bố nhiệt độ và lượng 
mưa tháng của từng trạm khí tượng được thể 
hiện trên Hình 4. 
tháng
tháng
tháng
tháng tháng
52 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 8 - Tháng 12/2018
Để có cái nhìn rõ ràng hơn về sự khác nhau 
trong phân bố mưa giữa các trạm khu vực đô thị 
và khu vực nông thôn, phân bố mưa tháng được 
đưa vào phân tích trong nghiên cứu này. Lượng 
mưa tháng trung bình của từng thập kỷ được 
biểu diễn trên Hình 6 thể hiện sự thay đổi của 
phân bố mưa tháng qua các thập kỷ. 
Kết quả phân tích cho thấy phân bố mưa 
tháng của hai trạm Hà Nội và Hà Đông có xu 
thế lệch phải theo thời gian. Lượng mưa tháng 
lớn nhất của những trạm này có xu thế dịch về 
những tháng cuối của năm. Tháng có lượng 
mưa lớn nhất là tháng 8 (400mm). Trong khi đó, 
phân bố lượng mưa tháng giữa các thời kỳ của 
hai trạm đo khu vực nông thôn (Ba Vì và Sơn 
Tây) không có sự dịch chuyển rõ ràng.
Ảnh hưởng của đô thị hóa lên lượng mưa
Xu thế tuyến tính của lượng mưa năm theo 
sự phát triển dân số của đô thị Hà Nội được thể 
Hình 5. Lượng mưa trung bình trượt 10 năm ở các trạm (1961-2014)
Hình 6. Lượng mưa trung bình tháng quan trắc được tại các trạm
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 8 - Tháng 12/2018 
53
 Khi xem xét mối quan hệ giữa sự phát triển 
dân số và lượng mưa năm tại các trạm, có thể 
thấy có sự đối nghịch về xu thế giữa các trạm khu 
vực nông thôn và đô thị (Hình 8). Với các trạm 
khí tượng thuộc khu vực đô thị (Hà Nội và Hà 
Đông), chỉ với một lượng tăng dân số là 0,4391 
nghìn người và 2,969 nghìn người cũng đã có thể 
khiến lượng mưa tăng 1mm. Trong khi để tăng 
được lượng mưa như thế, con số đó tại 2 trạm 
thuộc khu vực nông thôn (Ba Vì và Sơn Tây) lần 
lượt là 36,893 và 13,972 nghìn người. Nói cách 
khác, ảnh hưởng của việc tăng dân số trong khu 
vực đô thị là mạnh hơn khu vực nông thôn. Hệ 
hiện trên Hình 7a. Trước và sau năm 1991, 
như trên hình vẽ có thể thấy có hai vùng riêng 
biệt, vùng bên trái bao gồm dữ liệu của các 
năm 1961, 1979 và 1991, vùng bên phải là dữ 
liệu của các năm sau 2005. Từ năm 1991, sáu 
quận và một thị trấn của Hà Nội được chuyển 
lại về tỉnh Hà Tây và Vĩnh Phúc. Do đó, nghiên 
cứu không sử dụng số liệu thu thập được của 
các năm 1961, 1979 và 1991 cho việc đánh 
giá ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa. Chỉ 
có số liệu của 5 năm tiếp theo sau năm 1991 
được đưa vào để phân tích mối quan hệ giữa 
lượng mưa và dân số. Hình 7b cho thấy rõ 
ràng những ảnh hưởng của đô thị hóa lên 
phân bố mưa với lượng mưa năm tăng theo 
sự phát triển dân số. 
Hình 7. Mối quan hệ giữa lượng mưa và quá trình đô thị hóa của Thành phố Hà Nội: 
(a) 1961-2013; (b) 2005-2013
Hình 8. Hệ số tương quan và hồi quy giữa mưa và sự gia tăng dân số tại các trạm nghiên cứu
số tương quan của các đường hồi quy cũng được 
thể hiện trên Hình 9. Mối quan hệ giữa lượng 
mưa và sự tăng dân số khá là chặt chẽ tại trạm Ba 
Vì trong khi ở các trạm khác thì yếu hơn. Khi xem 
xét số liệu sau năm 2008 khi quận Hà Đông được 
sáp nhập vào Thành phố Hà Nội, có thể thấy hệ 
số tương quan tại trạm Hà Nội và Hà Đông thay 
đổi lần lượt thành 0,763 và 0,994. 
4.2. Tác động của quá trình đô thị hóa lên nhiệt 
độ không khí
Xu thế nhiệt độ
Khi phân tích số liệu có thể thấy là số liệu 
54 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 8 - Tháng 12/2018
Hình 9. Nhiệt độ trung bình hàng năm đo tại các trạm khí tượng theo thời gian (1961-2014)
Hình 10. Sự chênh lệch nhiệt độ đo được tại trạm Hà Nội và các trạm thuộc khu vực nông thôn
mưa năm của 4 trạm khí tượng thể hiện những 
xu thế không rõ ràng nhưng số liệu nhiệt độ 
trung bình năm lại luôn duy trì một xu thế tăng 
qua 50 năm quan trắc. Từ Hình 9 có thể thấy 
nhiệt độ trung bình hàng năm quan trắc được 
tại trạm Hà Nội cao hơn so với các trạm khác và 
tăng, giảm nhanh hơn trong những năm từ năm 
2000 trở lại đây. 
 Hình 10 biểu diễn sự chênh lệch nhiệt độ 
đo được giữa các trạm Hà Nội, Ba Vì và Sơn Tây 
bằng các phép tính trung bình trượt 5 năm và 
10 năm để phân tích xu thế chung. Từ năm 1990 
trở lại đây, hai trạm Sơn Tây và Ba Vì có xu thế 
tăng. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa trạm Hà Nội 
và hai trạm đo khu vực nông thôn tăng nhanh 
qua các năm. 
( )bu r uT a POPULATION
−∗
− =
u rT
−∗
−
 Tác động của đô thị hóa lên nhiệt độ khu vực
Karl et al. (1988) đã đưa ra hàm hồi quy mô 
tả mối quan hệ giữa nhiệt độ và dân số để phân 
tích ảnh hưởng của đô thị hóa lên nhiệt độ. Hàm 
số có dạng như sau:
 (1)
Với: là giá trị trung bình của chênh lệch 
nhiệt độ giữa khu vực đô thị và nông thôn; a và 
b là các hệ số hồi quy. 
Trong nghiên cứu này, đã tính toán và thu 
được các hàm hồi quy quan hệ giữa chênh lệch 
nhiệt độ của các trạm Hà Nội, Ba Vì, Sơn Tây và 
số dân của thành phố Hà Nội (Hình 11). Kết quả 
cho thấy là có sự tương quan mạnh mẽ giữa 
chênh lệch nhiệt độ với dân số của thành phố 
Hà Nội. Vì hệ số mũ trong phương trình của 
hàm hồi quy nhỏ hơn 1, nên sự tăng dân số chỉ 
dẫn đến sự tăng nhẹ về nhiệt độ trong khu vực 
nội đô. 
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 8 - Tháng 12/2018 
55
Hình 11. Đường cong hồi quy biểu diễn mối quan hệ tương quan giữa nhiệt độ 
và quá trình đô thị hóa ở Thành phố Hà Nội theo thời gian
Hình 12. Đường hồi quy biểu diễn mối quan hệ giữa nhiệt độ 
các mùa và ảnh hưởng của đô thị hóa
Quan hệ giữa nhiệt độ các mùa với dân số 
của Hà Nội cũng được đưa vào phân tích, kết quả 
được trình bày như trên Hình 12. Có thể thấy rõ 
là đường hồi quy có xu hướng đi lên trong mùa 
hè và mùa đông, đi xuống vào mùa xuân và mùa 
thu. Hệ số tương quan giữa nhiệt độ và dân số 
trong mùa hè cao hơn các mùa khác, trong mùa 
đông là thấp nhất. Kết quả thu được cho thấy 
trong mùa hè, nhiệt độ không khí bị ảnh hưởng 
bởi đô thị hóa nhiều hơn các mùa khác. Lý do là 
trong mùa đông và mùa xuân, nhiệt độ không khí 
của Hà Nội phần lớn bị ảnh hưởng bởi những đợt 
gió lạnh từ khối áp cao lục địa, còn mùa thu thì 
nhiệt độ chủ yếu bị ảnh hưởng bởi mưa bão.
4.3. Nhận xét
Những kết quả thu được trong nghiên cứu 
này đều cho thấy một cách rõ ràng cơ chế tác 
động của quá trình đô thị hóa đến lượng mưa 
và nhiệt độ. Sự đô thị hóa làm giảm đi nguồn 
tài nguyên nước sẵn có và do đó làm giảm bốc 
hơi, ảnh hưởng đến lượng giáng thủy trong khu 
vực đô thị. Hơn nữa, sự nóng lên của bề mặt đất 
cũng có thể xem là một trong những yếu tố tác 
động đến lượng mưa. Sự thay đổi trong thảm 
phủ thực vật cũng có những ảnh hưởng lên các 
dòng chảy động lực ở tầng thấp và dòng chảy 
56 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 8 - Tháng 12/2018
mặt, điều này có thể dẫn đến nhiệt độ tại các 
khu vực nội đô cao hơn hẳn khu vực nông thôn 
[13]. Những thay đổi trong nhiệt độ không khí 
có thể tác động lên cả những cơn mưa giông đối 
lưu và được xem như là yếu tố gia tăng lượng 
mưa trong khu vực đô thị [2]. Quá trình đô thị 
hóa cùng với việc gia tăng các phương tiện giao 
thông cũng khiến cho nồng độ khí thải tăng cao, 
điều này sẽ tác động lên quá trình phát triển của 
nhiệt độ không khí và mây trong khu vực đô thị 
[11, 13]. Ngoài ra, việc các tòa cao ốc được xây 
dựng nhiều cũng làm thay đổi quá trình luân 
chuyển của các luồng không khí trong khu vực 
đô thị và sau đó sẽ làm thay đổi ảnh hưởng của 
các cơn lốc (gió xoáy) cũng như nhiệt độ. 
5. Kết luận
Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa lên các 
đặc trưng khí hậu cục bộ ở khu vực đô thị đặc 
biệt là nhiệt độ và lượng mưa đã được làm rõ 
cho khu vực Thành phố Hà Nội. Số liệu tính toán 
được thu thập từ 4 trạm khí tượng trong phạm 
vi thành phố để đánh giá, phân tích các xu thế 
và tác động của đô thị hóa. Những đánh giá sử 
dụng phép tính trung bình trượt cho dữ liệu 
lượng mưa hàng năm đã cho thấy rõ sự khác 
biệt giữa khu vực đô thị và nông thôn. 
Xu thế mưa trong nghiên cứu này được thể 
hiện bằng phân bố mưa tháng trung bình trượt 
10 năm. Các kết quả tìm được cũng cho thấy có 
mối liên quan tới các giai đoạn phát triển của 
Thành phố Hà Nội. Phân tích định lượng cũng 
được tiến hành và đã cho thấy mối quan hệ tỷ lệ 
thuận tuyến tính giữa sự phát triển dân số và sự 
thay đổi của lượng mưa. Các kết quả thu được 
từ các trạm đo cho thấy sự phát triển dân số 
trong khu vực đô thị làm biến đổi lượng mưa 
mạnh hơn ở các khu vực nông thôn.
Sự thay đổi nhiệt độ không khí trong 
nghiên cứu này tỷ lệ thuận với sự gia tăng dân 
số của đô thị. Thời điểm có sự thay đổi lớn ở 
nhiệt độ là trong thời kỳ đổi mới (sau năm 
1986). Quan hệ hàm mũ giữa sự tăng dân số và 
sự thay đổi nhiệt độ cũng được tính toán với hệ 
số tương quan cao. Nhiệt độ không khí bị ảnh 
hưởng nhiều nhất bởi sự đô thị hóa là trong 
mùa hè. 
Cơ chế vật lý của quá trình đô thị hóa và ảnh 
hưởng của nó lên khí hậu khu vực đô thị cũng 
được xem xét cùng với những phân tích tổng 
quan về nguyên nhân có thể tồn tại cho khu vực 
Thành phố Hà Nội. Trong khuôn khổ bài báo này 
chỉ tiếp cận sự ảnh hưởng của đô thị hóa với số 
dân tăng, cùng với một số hệ quả của đô thị hóa 
tới nhiệt độ và lượng mưa trong tiểu vùng khí 
hậu Hà Nội.
Tài liệu tham khảo
1. Barnston, A. & Schickedanz, P. T., (1984), The effect of irrigation on warm season precipitation in 
the southern Great Plains. J. Climate .Appl. Meteorol, Volume 23, pp. 865-888.
2. Bornstein, R., and Q. Lin, (2000), Urban heat islands and summertime convective thunderstorms in 
Atlanta: Three cases studies. Atmos. Environ., 34, 507-516.
3. Brown, M. & Arnold, D. L., (1998), Land-surface-atmosphere interactions associated with deep 
convection in Illinois. Int. J. Climatol, Volume 18, p. 1637–1653.
4. Changnon, S., (1978), Urban effects on severe local storms at St.Louis. J.Appl.Meteorol, 17(5), pp. 
578-586.
5. Changnon, S. & Huff, F., (1986), The Urban-related Nocturnal Rainfall Anomaly at St. Louis. 
American Meteorological Society, Volume 25.
6. Fujibe, F., (2009), Detection of urban warming in recent temperature trends in Japan. International 
Journal of Climatology, 29(12), pp. 1811-1822.
7. General Statistic Office of Vietnam (https://gso.gov.vn/)
8. Givati, A. & Rosenfeld, D., (2004), Quantifying Precipitation Suppression Due to Air Pollution. 
American Meteorological Society, Volume 43, pp. 1038-1056.
9. Karl, T. R., Diaz, H. F. & Kukla, G., (1988), Urbanization: Its Detection And Effect In The United States 
Climate Record. American Meteorological Society, Volume 1, pp. 1099-1123.
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 8 - Tháng 12/2018 
57
10. McCarthy, M. P., Best, M. J. & Betts, R. A., (2010), Climate change in cities due to global warming 
and urban effects. Geophysical Research Letters, 37(9).
11. Han, J.-Y., and J.-J. Baik, (2008), A theoretical and numerical study of urban heat island-induced 
circulation and convection. J. Atmos. Sci., 65, 1859-1877.
12. Rosenfeld, D., (2000), Suppression of Rain and Snow by Urban and Industrial Air Pollution. Science, 
287(5459), pp. 1793-1796.
13. Shepherd J. M., H. Pierce, and A. J. Negri, (2002), Rainfall modification by major urban areas: 
Observations from spaceborne rain radar on the TRMM satellite. J. Appl. Meteorol., 41, 689-701.
14. Stone, B., (2007), Urban and rural temperature trends in proximity to large US cities: 1951–2000. 
International Journal of Climatology, 27(13), p. 1801–1807.
15. Wikipedia. Access 25th December 2016. https://en.wikipedia.org/wiki/Hanoi
16. Yang, M., Xu, Y., Pan, G. & Han, L., (2014), Impacts of Urbanization on Precipitation in Taihu Lake 
Basin, China. Journal of Hydrologic Engineering, 19(4), pp. 739-746.
IMPACT OF URBANIZATION ON LOCAL CLIMATE IN HANOI CITY 
Doan Huy Phuong, Ngo Thi Thuy
Viet Nam Institute of Meteorology Hydrology and Climate change
Received: 12/11/2018; Accepted: 10/12/2018
Abstract: This study investigates the impact of urbanization on local climate of Ha Noi city. The 
changes in temperature and rainfall patterns are studied to detect urbanization effects. The results show 
that urbanization contributes to the increase of annual rainfall and temperature in urban area. The 
qualitative and quantitative analyses are involved to expose urbanization effects on local climate 
characteristics. In this present study, we consider temperature and rainfall changes at four meteorological 
stations located in urban, sub-urban and rural areas. The various changes of temperature and rainfall 
petterns obtained from these stations demonstrate the urbanization effects on rainfall and temperature 
in lthe research area.
Keywords: Urbanization, local climate, Ha Noi, Viet Nam.

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_qua_trinh_do_thi_hoa_den_tieu_vung_khi_hau_tha.pdf