Ảnh hưởng của những “doanh nghiệp sống thực vật” tới tăng trưởng kinh tế ở Nhật Bản trong giai đoạn “thập kỷ mất mát”

Dựa trên định nghĩa về doanh nghiệp sống thực vật của Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi &

Anil K. Kashyap (2004), nhóm tác giả đã nghiên cứu nền kinh tế Nhật Bản nhằm phân tích những tác

động của doanh nghiệp sống thực vật tới tăng trưởng kinh tế. Có thể kết luận rằng, bên cạnh tác động

tích cực là giảm tỷ lệ thất nghiệp, các doanh nghiệp sống thực vật gây ra hàng loạt tác động tiêu cực

tới tăng trưởng kinh tế như giảm năng suất lao động, bóp méo hoạt động của thị trường khi tác động

vào tỷ lệ việc làm mới được tạo thêm, giảm hiệu quả của việc phân phối các nguồn lực trong nền kinh

tế, lãng phí nguồn lực, ngăn chặn các doanh nghiệp mới gia nhập vào thị trường .

pdf 10 trang kimcuc 4540
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của những “doanh nghiệp sống thực vật” tới tăng trưởng kinh tế ở Nhật Bản trong giai đoạn “thập kỷ mất mát”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của những “doanh nghiệp sống thực vật” tới tăng trưởng kinh tế ở Nhật Bản trong giai đoạn “thập kỷ mất mát”

Ảnh hưởng của những “doanh nghiệp sống thực vật” tới tăng trưởng kinh tế ở Nhật Bản trong giai đoạn “thập kỷ mất mát”
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
13Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
1. Bối cảnh kinh tế
Vào những năm 1990, Nhật Bản đã phải 
hứng chịu một trong những cuộc khủng hoảng 
kinh tế tồi tệ và hậu quả của nó kéo dài trong 
những thập kỷ tiếp theo tạo ra thời kỳ Thập kỷ 
mất mát. Trái ngược với thời kỳ này, những 
năm 1980 là thời kỳ cực thịnh của nền kinh 
tế Nhật Bản. Tính thanh khoản cao trong hệ 
thống ngân hàng, các quy định về tài chính 
được nới lỏng cùng với sản lượng xuất khẩu 
vượt trội đã tạo ra tư tưởng tự tin thái quá của 
các doanh nghiệp và ngân hàng Nhật Bản. 
Sự tự tin quá mức cùng với chính sách tiền 
tệ nới lỏng của Ngân hàng Nhật Bản đã làm 
bùng nổ các thương vụ đầu cơ vào thị trường 
chứng khoán và thị trường bất động sản nội 
ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG “DOANH NGHIỆP SỐNG THỰC VẬT” 
TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở NHẬT BẢN TRONG GIAI ĐOẠN 
“THẬP KỶ MẤT MÁT”
Nguyễn Thị Tường Anh* 
Vũ Thị Thanh Xuân** 
Nguyễn Thị Kim Hồng
* TS, Trường Đại học Ngoại thương; Email: tuonganh@ftu.edu.vn
** TS, Trường Đại học Ngoại thương; Email: thanhxuan@ftu.edu.vn
Tóm tắt
Dựa trên định nghĩa về doanh nghiệp sống thực vật của Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & 
Anil K. Kashyap (2004), nhóm tác giả đã nghiên cứu nền kinh tế Nhật Bản nhằm phân tích những tác 
động của doanh nghiệp sống thực vật tới tăng trưởng kinh tế. Có thể kết luận rằng, bên cạnh tác động 
tích cực là giảm tỷ lệ thất nghiệp, các doanh nghiệp sống thực vật gây ra hàng loạt tác động tiêu cực 
tới tăng trưởng kinh tế như giảm năng suất lao động, bóp méo hoạt động của thị trường khi tác động 
vào tỷ lệ việc làm mới được tạo thêm, giảm hiệu quả của việc phân phối các nguồn lực trong nền kinh 
tế, lãng phí nguồn lực, ngăn chặn các doanh nghiệp mới gia nhập vào thị trường.
Từ khóa: Doanh nghiệp sống thực vật, tín dụng ưu đãi, tính hiệu quả.
Mã số: 198.071115. Ngày nhận bài: 07/11/2015. Ngày hoàn thành biên tập: 31/12/2015. Ngày duyệt đăng: 31/12/2015.
Abstract
Based on definition of zombie firms by Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap 
(2004), the author studies Japanese economy to analyze the impact of zombie firms on economic 
growth. It can be concluded that beside only one positive effect to reduce unemployment rate, zombie 
firms can cause series of negative effect on growth of economy like decline productivity and average 
yield of the economy, distort the market by affecting the ratio of new job is created, cause serious 
impact to the operation of the normal business, reduce the level of effectiveness of the reallocation 
of resources, waste of resources, prevent new firms entering the market.
Key words: Zombie firms, favorable credit, effectiveness.
Paper No. 198.071115. Date of receipt: 07/11/2015. Date of revision: 31/12/2015. Date of approval: 31/12/2015.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
14 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
địa, khiến giá các tài sản này bị đẩy lên mức 
“trên trời”. Từ năm 1985 - 1989, chỉ số Nikkei 
tăng gấp ba lần lên mức 39.000, chiếm hơn 1/3 
mức vốn hóa qua thị trường chứng khoán thế 
giới. Giá nhà đất tại các khu cao cấp tại Tokyo 
tăng lên mức đắt hơn 350 lần so với giá nhà 
đất cùng loại tại Manhattan, New York. 
Năm 1989, quan chức Nhật Bản bắt đầu 
lo ngại trước sự phát triển của bong bóng tài 
sản, và Ngân hàng trung ương Nhật Bản quyết 
định thắt chặt chính sách tiền tệ. Sự kiện này 
đã kích nổ bong bóng chứng khoán và bong 
bóng bất động sản, khủng hoảng tài chính bắt 
đầu từ đây. Tính đến năm 2004, chỉ số Nikkei 
sụt giảm 75% giá trị của nó so với thời kỳ cực 
thịnh. Giá bất động sản tụt giảm trong 15 năm 
liên tiếp. Giá đất trên thị trường giảm 50% 
sau 10 năm kể từ khi đạt đỉnh năm 1992. Đến 
năm 2004, giá nhà đất tại Tokyo chỉ còn 10% 
của mức giá năm 1980, còn khu vực đắt đỏ 
nhất Tokyo - Ginza - giá nhà đất chỉ còn 1% 
mức giá năm 1989 (Jesse Colombo, 2012). Hệ 
thống ngân hàng lâm vào tình trạng nợ xấu 
trầm trọng. Mức nợ công đã vượt qua mức 
GDP. Nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng 
giảm phát, tốc độ tăng trưởng chậm lại. Nếu 
như trong những năm 1980, tốc độ tăng trưởng 
GDP của Nhật Bản trung bình khoảng 3,8% 
thì chỉ sau đó một thập kỷ - đến những năm 
1990, tốc độ tăng trưởng trung bình chỉ còn 
1,3%, nền kinh tế trở nên trì trệ (Takeo Hoshi, 
Anil Kashyap, 2011). Chính phủ đã phản ứng 
trước cuộc khủng hoảng bằng việc hạ lãi suất, 
thực chính sách kích thích tài khóa. Lãi suất 
được giữ ở mức thấp và gần ở mức 0% (Takeo 
Hoshi, Anil Kashyap, 2011). 
Chính phủ đã bơm 1.8 nghìn tỷ yên vào hệ 
thống ngân hàng chính nhằm vực dậy hệ thống 
này. Từ năm 1990, Chính phủ gần như che 
giấu vấn đề thực sự của hệ thống ngân hàng - 
nợ xấu, và khuyến khích các ngân hàng nhân 
nhượng hoặc xóa nợ cho các doanh nghiệp. Và 
đây chính là nguyên nhân sản sinh ra một số 
lượng không nhỏ các doanh nghiệp sống thực 
vật trong nền kinh tế Nhật Bản thời bấy giờ. 
Đây là những công ty cần các cuộc cứu trợ 
liên tục từ chính phủ và ngân hàng để có thể 
tiếp tục hoạt động, hoặc các công ty mắc nợ 
mà chỉ có khả năng trả được lãi chứ không có 
khả năng trả cả khoản nợ đã vay. Mãi cho tới 
tháng 3/1998, Chính phủ Nhật Bản mới chính 
thức công bố rộng rãi vấn đề nợ xấu cũng như 
đưa ra quy định thống nhất định nghĩa nợ xấu. 
Theo như Sắc lệnh Tái cấu trúc Tài chính năm 
1998 (Financial Reconstruction Act - FRA), 
nợ xấu bao gồm các khoản tín dụng cho các 
doanh nghiệp thất bại trên thị trường, khoản 
cho vay đã quá hạn trả 3 tháng, và các khoản 
tín dụng ưu đãi.
Đơn vị tính: trăm triệu yên
Đồ thị 1: Nợ xấu trong nền kinh tế Nhật Bản 
(3/1999 - 3/2009)
Nguồn: Financial Services Agency, bảng 1, 2010. 
Trên đây là đồ thị thể hiện mức nợ xấu qua 
các năm, được tính toán dựa trên định nghĩa 
nợ xấu trong FRA. Từ năm 1999-2005, nợ xấu 
trong nền kinh tế luôn ở mức cao, và những nỗ 
lực xử lý nợ xấu gần như không có tác dụng, 
đỉnh điểm là năm 2002 với nợ xấu ở mức 
43.207 tỷ Yên. Từ năm 1992-2005, ngân hàng 
đã xử lý 96 nghìn tỷ yên rủi ro tín dụng, xấp xỉ 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
15Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
19% GDP hàng năm. Đến năm 2006, nợ xấu 
mới trở lại tầm kiểm soát.
Chính phủ Nhật Bản đã có nhiều hành động 
nhằm hạn chế cuộc khủng hoảng đi xuống bao 
gồm thành lập các Công ty quản lý tài sản 
(AMC - Asset Management Company), bơm 
vốn vào các ngân hàng, hạ lãi suất tín dụng, 
thậm chí huy động vốn tư nhân để xử lý nợ 
xấu. Đến năm 2002, kế hoạch Takenaka được 
thực thi với các động thái như buộc các ngân 
hàng chính phải thực hiện kiểm toán khách 
quan sử dụng giá thị trường của các khoản nợ 
xấu, thừa nhận nợ xấu, dùng 2 nghìn tỷ yên để 
quốc hữu hóa các ngân hàng lớn, cho phép các 
ngân hàng yếu kém phá sản hoặc sát nhập với 
các ngân hàng lớn. Việc thực hiện kế hoạch 
Takenaka đã góp phần không nhỏ giúp nền 
kinh tế Nhật Bản phục hồi. 
Giống như nhiều nước khác trên thế giới, 
nguyên nhân của hiện tượng các doanh nghiệp 
sống thực vật tồn tại trong thời gian dài trong 
nền kinh tế Nhật Bản cũng bắt nguồn từ sự 
nhân nhượng của Chính phủ và các ngân hàng 
cho vay. Cuộc khủng hoảng bắt đầu năm 1989, 
nhưng phải mãi cho đến năm 1998, Chính phủ 
mới thừa nhận mức độ trầm trọng của khủng 
hoảng và công bố mức nợ xấu của nền kinh tế. 
Trong suốt 9 năm, Chính phủ đã phủ nhận tính 
nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng. Chính 
sách, nền chính trị của Nhật Bản che giấu các 
vấn đề của nền kinh tế. Thêm vào đó, Chính phủ 
đưa ra các gói cứu trợ, hoặc khuyến khích ngân 
hàng đưa ra các khoản tín dụng ưu đãi cho các 
doanh nghiệp nợ cao, đặc biệt là những doanh 
nghiệp quá lớn (too big to fail) trong giai đoạn 
khủng hoảng. Ưu đãi tín dụng tồn tại dưới nhiều 
hình thức: lãi suất ưu đãi, hoán đổi nợ thành cổ 
phần (debt-for-equity swaps), cho phép trì hoãn 
trả lãi vay hay nợ gốc, và xóa nợ hoàn toàn. 
Nhiều bằng chứng đã cho thấy có sự tồn tại của 
tín dụng ưu đãi tại thời kỳ đó như:
• Phí vay (loan spreads: mức chênh lệch 
giữa lãi suất tiết kiệm mà ngân hàng thương 
mại đưa ra đối với người gửi tiền so với lãi 
suất cho vay mà ngân hàng đó đề nghị với 
người đi vay) tại Nhật Bản thấp so với Đức, 
Mỹ, Anh vào những năm 1990.
• Người Nhật Bản đi vay phải trả phí thấp 
hơn, với các điều khoản vay đa dạng hơn so 
với người nước ngoài.
• Lãi suất cho vay hoặc rất cao (từ những 
kẻ cho vay nặng lãi phi pháp) hoặc rất thấp 
(đối với phần lớn các hãng) mà không có mức 
trung bình.
• Lượng vay với lãi suất cao hơn 3% giảm 
mạnh giai đoạn 1999-2004.
• Phí vay năm 2004 thấp hơn năm 2003.
Ngân hàng cũng có nhiều lý do để đảo nợ, tái 
cấu trúc nợ cho các doanh nghiệp nợ nhiều. Một 
mặt, ngân hàng phải tuân theo quy chuẩn quốc 
tế về mức an toàn vốn tối thiểu. Xác nhận và 
xử lý nợ xấu - đặc biệt là những khoản nợ lớn - 
đồng nghĩa với việc ngân hàng có nguy cơ bị lỗ 
lớn, không chỉ ảnh hưởng đến khả năng duy trì 
tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu mà còn có thể khiến 
ngân hàng đó phá sản. Mặt khác, ngân hàng luôn 
phải đối diện với những chỉ trích của dư luận khi 
ngân hàng thu hồi nợ từ doanh nghiệp khiến các 
doanh nghiệp này phá sản, hoặc khi ngân hàng 
từ chối cho các doanh nghiệp vay mới làm cuộc 
khủng hoảng càng thêm trầm trọng. 
Tóm lại, mức lãi suất thấp được duy trì trên 
thị trường cùng với các khoản tín dụng ưu đãi 
của ngân hàng, các gói cứu trợ của Chính phủ 
đã tạo ra những doanh nghiệp trong tình trạng 
“dở sống dở chết”: những công ty nợ đầm đìa 
do đã đổ quá nhiều vốn đầu tư vào bong bóng 
bất động sản và chứng khoán trước kia, nay 
nhờ những yếu tố thuận lợi từ bên ngoài mà 
chưa bị buộc phải phá sản nhưng cũng không 
đủ nguồn lực để phát triển hơn, là tiền đề cho 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
16 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
sự ra đời của các “doanh nghiệp sống thực 
vật” trong nền kinh tế Nhật Bản.
2. Tình trạng các “doanh nghiệp sống 
thực vật” trong nền kinh tế
2.1. Cách xác định “doanh nghiệp sống 
thực vật” 
Không có một số liệu chính thức nào về số 
lượng các doanh nghiệp sống thực vật trong 
nền kinh tế Nhật Bản được Chính phủ công 
bố, tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu đã dựa 
trên lý thuyết để đưa ra các tiêu chí cơ bản khi 
phân biệt giữa doanh nghiệp sống thực vật và 
doanh nghiệp bình thường. Để xác định mức 
tín dụng ưu đãi, họ đã so sánh mức lãi vay 
thực trả với mức phải trả tối thiểu giả định 
mà những công ty bình thường sẽ trả (chỉ số 
R). Ngoài ra, nếu doanh nghiệp có lợi nhuận 
trước thuế và lãi (earnings before interest and 
taxes - EBIT) nhỏ hơn mức lãi vay R, tổng nợ 
doanh nghiệp lớn hơn một nửa tổng tài sản 
kỳ trước và doanh nghiệp tiếp tục vay mới thì 
doanh nghiệp đó sẽ được xác định là “doanh 
nghiệp sống thực vật” (Shin-ichi Fukuda, Jun-
ichi Nakamura, 2010).
2.2. Thực trạng các “doanh nghiệp sống 
thực vật” trong nền kinh tế Nhật Bản 
Đơn vị: %
Đồ thị 2: Tỷ lệ các doanh nghiệp sống thực 
vật (tính theo số hãng)
Nguồn: Takeo Hoshi, 2006.
Đồ thị trên biểu diễn tỷ lệ các doanh nghiệp 
sống thực vật trong nền kinh tế Nhật Bản. Tỷ 
lệ doanh nghiệp sống thực vật dao động từ 
5-15% trước năm 1990, sau đó tăng đột biến 
Đơn vị: %
Đồ thị 3: Tỷ lệ các doanh nghiệp sống thực vật trong từng ngành (tính theo trị giá tài sản)
Nguồn: Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap, 2008.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
17Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
từ giữa những năm 1990, và luôn ở mức trên 
25% từ sau năm 1994. Những năm 2000, tỷ lệ 
này dao động trong khoảng từ 30-40%. 
Từ nhóm đồ thị trên, ta có thể thấy doanh 
nghiệp sống thực vật tồn tại nhiều ở ngành phi 
sản xuất so với ngành sản xuất. Tính theo trị 
giá tài sản, tỷ lệ doanh nghiệp sống thực vật ở 
tất cả các ngành trung bình ở mức 4,72% giai 
đoạn 1981 - 1993, tăng lên ở mức trung bình 
14,51% giai đoạn 1996 - 2002. Trong ngành 
sản xuất, tỷ lệ doanh nghiệp sống thực vật chỉ 
tăng từ 3,63% (trung bình giai đoạn 1981 - 
1993) lên 10,10% (trung bình giai đoạn 1996 
- 2002). Trong ngành công nghiệp xây dựng, 
cá biệt tỷ lệ này tăng từ 4,47% (trung bình giai 
đoạn 1981 - 1993) lên 20,34% (trung bình 
giai đoạn 1996 - 2002). Nhóm ngành bán 
buôn, bán lẻ, dịch vụ và bất động sản cũng có 
mức tăng khá lớn.
2.3. Ảnh hưởng của các doanh nghiệp 
sống thực vật tới nền kinh tế Nhật Bản
2.3.1. Ảnh hưởng tích cực: 
Có lẽ lợi ích duy nhất mà Chính phủ có 
được khi duy trì sự tồn tại của các doanh 
nghiệp sống thực vật là việc gia tăng tỷ lệ thất 
nghiệp được hạn chế. Trong suốt giai đoạn 
1980 - 1989, tỷ lệ thất nghiệp trung bình là 
2,5%. Khi cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra và 
trong suốt giai đoạn Thập kỷ mất mát (1990 
- 1999), tỷ lệ thất nghiệp bình quân cũng chỉ 
tăng lên đến 3,09%. Trong giai đoạn tiếp sau 
đó (2000 - 2009), tỷ lệ này ở mức 4,65%. Nếu 
các doanh nghiệp sống thực vật không nhận 
được cứu trợ và bị phá sản hàng loạt, tỷ lệ 
thất nghiệp chắc chắn sẽ tăng vọt bởi một số 
lượng lớn người lao động làm việc trong các 
công ty này bị mất việc làm. Chính phủ đã ít 
nhiều thành công trong việc kìm hãm tỷ lệ thất 
nghiệp không tăng cao.
Đvt: %
Đồ thị 4: Tỷ lệ thất nghiệp tại Nhật Bản
Nguồn: World Bank (số liệu do Nhật Bản cung cấp)
Qua đồ thị, ta có thể thấy nếu so sánh với 
các nước Mỹ và Anh, tỷ lệ thất nghiệp ở Nhật 
Bản luôn ở mức thấp. Sau cuộc khủng hoảng 
năm 2008, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ tăng từ 4,6% 
năm 2007 lên tới 9,6% năm 2010. Tương tự, 
tỷ lệ thất nghiệp tại Anh tăng từ 5,3% năm 
2008 lên 7,9% năm 2012. Trong khi đó, trong 
thời kỳ khủng hoảng những năm 1990, tỷ lệ 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
18 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
thất nghiệp tại Nhật Bản chỉ tăng từ 2,1% năm 
1990 lên cao nhất là 5,4% năm 2002 - một tỷ 
lệ thấp hơn nhiều so với tỷ lệ này ở các nước 
Anh, Mỹ giai đoạn khủng hoảng.
2.3.2. Ảnh hưởng tiêu cực 
Mặc dù việc cứu trợ các doanh nghiệp sống 
thực vật giúp kiềm chế tỷ lệ thất nghiệp, nhưng 
chi phí của những tác động xấu mà các doanh 
nghiệp sống thực vật tạo ra còn lớn hơn lợi ích 
mà các doanh nghiệp này mang lại.
Ảnh hưởng đầu tiên phải kể đến là việc 
ngăn cản hãng mới gia nhập thị trường. 
Các doanh nghiệp sống thực vật làm méo mó 
thị trường bằng việc làm giảm giá sản phẩm, 
tăng mức lương trung bình trong ngành qua 
việc giữ lao động - những người có năng suất 
đang giảm dần. Điều này làm giảm lợi nhuận 
tiềm tàng trong ngành, qua đó làm giảm động 
lực gia nhập thị trường của các hãng mới. Bên 
cạnh đó, việc có quá nhiều doanh nghiệp cạnh 
tranh trong một ngành, đặc biệt là các doanh 
nghiệp sống thực vật cũng làm giảm mức độ 
hấp dẫn của thị trường đối với các hãng mới. 
Trong điều kiện kinh tế khó khăn sau khủng 
hoảng, các doanh nghiệp mới sẽ có e ngại khi 
cân nhắc việc gia nhập một ngành có nhiều 
doanh nghiệp nhận được ưu đãi và hỗ trợ từ 
ngân hàng, Chính phủ như các doanh nghiệp 
sống thực vật. Tóm lại, một ngành có nhiều 
doanh nghiệp sống thực vật làm giảm động 
lực gia nhập ngành của các doanh nghiệp mới.
Bên cạnh đó, số lượng các doanh nghiệp 
sống thực vật tăng có mối liên hệ với việc 
giảm mức độ tái cấu trúc trong ngành, với 
việc số lượng công việc mới được tạo ra 
đặc biệt thấp tại các phân khúc tập trung 
nhiều doanh nghiệp sống thực vật. Trong 
một nghiên cứu, Ricardo J. Caballero & Takeo 
Hoshi & Anil K. Kashyap (2008) đã chỉ ra 
việc các doanh nghiệp sống thực vật đã làm 
méo mó thị trường qua việc ảnh hưởng đến 
tỷ lệ công việc mới được tạo ra và tỷ lệ việc 
làm mất đi. Tỷ lệ các công việc mới được tạo 
ra tính bằng số lượng nhân viên tăng lên trong 
suốt năm chia cho tổng số nhân viên tại thời 
điểm đầu năm. Tương tự, tỷ lệ việc làm mất 
đi được tính bằng số lượng nhân viên giảm 
xuống trong suốt năm chia cho tổng số nhân 
viên tại thời điểm đầu năm. Nhóm tác giả đã 
Đơn vị: %
Đồ thị 5: Tỷ lệ các doanh nghiệp sống thực vật và tỷ lệ việc làm mới được tạo ra
Nguồn: Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap, 2008.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
19Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
so sánh các tỷ lệ trung bình giai đoạn 1981 - 
1993 và giai đoạn 1996 - 2002 và rút ra kết 
luận là ngành sản xuất ít chịu ảnh hưởng bởi 
các doanh nghiệp sống thực vật hơn so với 
các ngành phi sản xuất. Từ nửa đầu đến nửa 
cuối những năm 1990, tỷ lệ tăng các doanh 
nghiệp sống thực vật trong ngành sản xuất chỉ 
khoảng 6% trong khi tỷ lệ này ở ngành xây 
dựng và dịch vụ là 16%, ngành bán buôn bán 
lẻ là khoảng 14%. Trong ngành sản xuất, khi 
các doanh nghiệp sống thực vật tăng 6% thì 
số việc làm bị mất đi tăng khoảng 3%. Trong 
khi đó, tỷ lệ tương ứng trong ngành xây dựng 
chỉ là 2%, ngành dịch vụ và bán buôn bán lẻ 
khoảng 1%. Như vậy, số các doanh nghiệp 
sống thực vật tăng làm tăng số lượng việc làm 
bị mất đi.
Mức độ ảnh hưởng của các doanh nghiệp 
sống thực vật đến số lượng việc làm mới được 
tạo ra trong ngành sản xuất gần như là không 
có, số lượng việc làm mới được tạo ra hầu 
như không thay đổi từ nửa đầu đến nửa cuối 
những năm 1990. Trái lại, trong ngành dịch vụ, 
số lượng các doanh nghiệp sống thực vật tăng 
14% làm giảm số lượng việc làm mới được tạo 
ra khoảng 2%. Trong ngành bán buôn bán lẻ, tỷ 
lệ tương ứng là khoảng 3,5%; và khoảng 4,5% 
trong ngành xây dựng. Như vậy, số lượng các 
doanh nghiệp sống thực vật tăng làm giảm số 
lượng việc làm mới được tạo ra. Bên cạnh đó, 
ngành xây dựng chịu ảnh hưởng nặng nề từ 
các doanh nghiệp sống thực vật hơn các ngành 
khác. Điều này có thể được giải thích bởi ngành 
xây dựng đã được hưởng lợi lớn hơn các ngành 
khác khi bong bóng bất động sản phình to, và 
ngành này cũng chịu tác động nhiều hơn khi vỡ 
bong bóng bất động sản.
Ngoài việc làm tăng số việc làm bị mất đi 
và giảm số lượng việc làm mới được tạo ra, 
các doanh nghiệp sống thực vật còn gây 
ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của 
các doanh nghiệp bình thường. Ricardo J. 
Đvt: %
Đồ thị 6: Tỷ lệ các doanh nghiệp sống thực vật và tốc độ tăng trưởng năng suất các nhân tố 
tổng hợp (TFP)
Nguồn: Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap, 2008.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
20 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap 
(2008) trong nghiên cứu của mình chỉ ra rằng 
doanh nghiệp sống thực vật làm giảm tỷ lệ đầu 
tư và tăng tỷ lệ thất nghiệp của các doanh nghiệp 
bình thường trong cùng một ngành. Thêm vào 
đó, các doanh nghiệp sống thực vật gia tăng số 
lượng lao động nhiều hơn doanh nghiệp bình 
thường, nhưng tỷ lệ số việc làm mất đi là như 
nhau (Takeo Hoshi, 2006). Các doanh nghiệp 
sống thực vật khiến các doanh nghiệp bình 
thường trong ngành phải chịu tác động nặng nề 
hơn từ cuộc khủng hoảng kinh tế, đồng thời gặp 
khó khăn trong việc vay vốn hơn.
Một tác động quan trọng hơn của các 
doanh nghiệp sống thực vật, đó là việc làm 
giảm năng suất trung bình của nền kinh tế.
Trong đồ thị trên, ta có thể thấy đường 
hồi quy giữa tỷ lệ các doanh nghiệp sống 
thực vật và tốc độ tăng trưởng năng suất các 
nhân tố tổng hợp cho thấy khi số lượng các 
doanh nghiệp sống thực vật tăng lên thì tốc độ 
tăng trưởng năng suất các nhân tố tổng hợp 
có khuynh hướng giảm dần. Như vậy, sự tồn 
tại của các doanh nghiệp sống thực vật có tác 
động tiêu cực tới năng suất trung bình của nền 
kinh tế.
Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil 
K. Kashyap (2008) cũng chỉ ra rằng khoảng 
cách năng suất giữa doanh nghiệp bình thường 
và doanh nghiệp sống thực vật tăng lên khi 
mật độ tập trung các doanh nghiệp sống thực 
vật trong ngành tăng.
Qua đồ thị, ta có thể thấy rằng tốc độ tăng 
trưởng năng suất trong các ngành phi sản xuất 
thấp hơn so với ngành sản xuất. Trong giai 
đoạn 1991 - 2000, năng suất tăng chậm trong 
cả ngành phi sản xuất và sản xuất. Sự khác 
biệt trong giai đoạn phục hồi trở nên rõ ràng 
khi quá trình hủy diệt sáng tạo cần thiết bị cản 
trở bởi sự tồn tại của các doanh nghiệp sống 
thực vật: năng suất gia tăng trong giai đoạn 
phục hồi những năm 1990 yếu hơn nhiều so 
Đvt: %
Đồ thị 7: Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) của Nhật Bản theo ngành 
(1995 = 100)
Nguồn: EU KLEMS, 2003
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
21Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
với những năm 1980. Bên cạnh đó, ta thấy có 
sự thay đổi rõ rệt về khoảng cách năng suất 
giữa ngành phi sản xuất và sản xuất. Từ khi 
kết thúc cuộc khủng hoảng năm 1982 đến khi 
bắt đầu cuộc khủng hoảng mới năm 1991, sự 
khác biệt về năng suất giữa ngành phi sản xuất 
và sản xuất chỉ là 1,5%/năm. Sự khác biệt 
này trở nên lớn hơn trong những năm 1990, 
ngành sản xuất có năng suất cao hơn ngành 
phi sản xuất trung bình 3,8%/năm trong suốt 
thời kỳ 1993 - 1997 và 1999 - 2000, trùng với 
thời gian mật độ tập trung các doanh nghiệp 
sống thực vật trong nền kinh tế cao. Ngành 
phi sản xuất có mật độ tập trung các doanh 
nghiệp sống thực vật cao hơn ngành sản xuất, 
và khoảng cách năng suất giữa hai ngành này 
thì ngày càng gia tăng trong nửa đầu và nửa 
cuối những năm 1990.
Các doanh nghiệp sống thực vật còn làm 
giảm mức độ hiệu quả của việc tái phân bổ 
nguồn lực, làm lãng phí nguồn lực. Phân bổ 
nguồn lực kém hiệu quả kéo theo giảm năng 
suất trung bình của nền kinh tế. Thông thường, 
nguồn lực thường di chuyển từ phân khúc có 
năng suất cận biên cao đến phân khúc có năng 
suất cận biên thấp. Tuy nhiên, nhóm tác giả 
Hyeog Ug Kwon, Futoshi Narita, và Machiko 
Narita (2010) đã chỉ ra xu hướng tái phân bổ 
ngược lại của nguồn lực những năm 1990. Kết 
quả nghiên cứu còn thể hiện rằng tái phân bổ 
nguồn lực có tác động tiêu cực tới tốc độ tăng 
trưởng năng suất bình quân, chủ yếu là do sự 
tái phân bổ nguồn nhân lực không hiệu quả 
trong giai đoạn những năm 1990. Tái phân 
bổ nguồn nhân lực cuối những năm 1980 tạo 
ra tăng trưởng dương, nhưng vào những năm 
1990, mức tăng trưởng này là âm. Việc cho 
các doanh nghiệp sống thực vật vay vốn làm 
giảm hiệu quả của tái phân bổ nguồn nhân lực 
37% trên tổng mức hiệu ứng tiêu cực quan sát 
được. Nếu không có các doanh nghiệp sống 
thực vật, năng suất trung bình của nền kinh 
tế có thể đã tăng thêm 1,6% trong suốt những 
năm 1990, chủ yếu là nhờ tái phân bổ nguồn 
nhân lực hiệu quả hơn.
Tóm lại, sự tồn tại của các doanh nghiệp 
sống thực vật có thể tạo ra những tác động tích 
cực đến tăng trưởng của một nền kinh tế nói 
chung và của nền kinh tế Nhật Bản nói riêng. 
Tuy nhiên, những tác động tiêu cực mà các 
doanh nghiệp này tạo ra sẽ lớn hơn nhiều lần. 
Do đó, việc xử lý các doanh nghiệp sống thực 
vật trong nền kinh tế là một công việc mang 
tính cấp bách và thời sự. Những kinh nghiệm 
xử lý “doanh nghiệp sống thực vật” của Nhật 
Bản trong “Thập kỷ mất mát” này có giá trị 
rất lớn với các quốc gia đang phải đối mặt với 
khủng hoảng kinh tế như nền kinh tế Việt Nam 
giai đoạn trong và sau khủng hoảng kinh tế 
toàn cầu 2008 - 2009. Không những thế, nếu 
như tại Nhật, việc cứu trợ các doanh nghiệp 
sống thực vật giúp hạn chế số lượng người lao 
động mất việc thì tại Việt Nam, một số lượng 
lớn người lao động vẫn mất việc làm khi tiến 
hành tái cấu trúc các doanh nghiệp quốc doanh 
sống thực vật, hay nói cách khác, lợi ích mà 
các doanh nghiệp sống thực vật mang lại tại 
Việt Nam là không có. Bên cạnh đó, các doanh 
nghiệp sống thực vật tại Việt Nam làm phân 
bổ nguồn lực không hiệu quả, làm giảm nguồn 
lực cung cấp cho các doanh nghiệp có năng 
suất cao hơn. Thời gian tồn tại của các doanh 
nghiệp sống thực vật càng lâu, ảnh hưởng tiêu 
cực tới năng suất bình quân của nền kinh tế 
càng lớn. Chính vì vậy, những kinh nghiệm 
trong xử lý các doanh nghiệp sống thực vật 
của Nhật Bản sẽ là những bài học quý giá cho 
Việt Nam trong việc kiểm soát những tác động 
tiêu cực của các doanh nghiệp này đối với tăng 
trưởng của nền kinh tế.q
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
22 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
Tài liệu tham khảo
1. Alan G. Ahearne and Naoki Shinada, 2004, Macro/Financial Issues and International 
Economic Relations: Policy Options for Japan and the United States, In: Ann Arbor, 
Zombie Firms and Economic Stagnation in Japan, CGP Program Part (2) conference, Japan, 
22 - 23/10/2004.
2. Association of Business Recovery Professionals R3, The “insolvency lag”: risks for 2010, 
2010. London: Association of Business Recovery Professionals R3.
3. Felix Choo, 2009, Big Bang, Bailouts and Bank Failures - A Study of Japanese Government 
Intervention During the 1990’s Banking Crisis and Parallels with the 2007-09 US Subprime 
Mortgage Crisis, Lund University, Master’s Programme in Asian Studies.
4. Foster, L., J. Haltiwanger and C. J. Krizan (1998) “Aggregate Productivity Growth: Lessons 
from Microeconomic Evidence”, NBER Working Paper 6803.
5. Hoshi, Takeo & Kashyap, Anil K, 2010. Will the U.S. bank recapitalization succeed? Eight 
lessons from Japan, Journal of Financial Economics, Elsevier, No 97(3), page 398 - 417.
6. Hyeog Ug Kwon, Futoshi Narita, Machiko Narita, 2010, Resource Reallo cation and Zombie 
Lending in Japan’s 1990s, RIETI (Research Institute of Economy, Trade and Industry) 
research project “Productivity of Industry and Firm and Economic Growth of Japan”.
7. Jesse Colombo, 2012, Japan’s Bubble Economy of the 1980s, The Buble Buble, [online] 
ngày 4 tháng 6, truy cập tại:  [Truy cập 
ngày 7/1/2015].
8. Mitsuru Misawa, 2006, Case Note: The Long Term Credit Bank of Japan Litigation, Asian 
Law, No 8, page 104 - 119. Access at: 
9. New Generation Research, Inc, 2014. 2014 Corporate Bankruptcy Annual Report. [online]. 
Access at: www.bankruptcydata.com 
10. Project on Productivity in the European Union, A Comparative Industry Approach, EU 
KLEMS2003. Access at: (
11. Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap, 2004, Zombie Lending and 
Depressed Restructuring in Japan, draft.
12. Ricardo J. Caballero & Takeo Hoshi & Anil K. Kashyap, 2008, Zombie Lending and 
Depressed Restructuring in Japan, American Economic Review, American Economic 
Association, No 98(5), page 1943-77.
13. Richard Disney, Wenchao Jin and Helen Miller, 2013, The productivity puzzles, The IFS 
Green Budget 2013, page 53 - 90.
14. Shin-ichi Fukuda, Jun-ichi Nakamura, 2010. Why Did “Zombie” Firms Recover in Japan? 
CIRJE Discussion Papers, CIRJE-F-751.
15. Takeo Hoshi, 2006, Economics of the living dead, The Japanese Economic Review, No 57, 
page 30 - 49.
16. Takeo Hoshi, Anil Kashyap, 2011. Why did Japan stop growing?, NIRA report. 
or.jp/pdf/1002english_report.pdf 
17. The Institute for Fiscal Studies, 2013, The IFS Green Budget, London: The Institute for 
Fiscal Studies, page 53 - 89.
18. The United Kingdom Statistics Authority, Insolvency Statistics - October to December 2014 
(Q4 2014), 2015. (Ins15/Coms/011). London: Insolvency Service and Companies House.
19. Tom Papworth, 2013, The Trading Dead - The zombie fims plaguing Britain’s economy, and 
what to do about them, The Adam Smith Institute.

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_nhung_doanh_nghiep_song_thuc_vat_toi_tang_truo.pdf