An ninh năng lượng thế giới những năm đầu thế kỉ XXI

An ninh năng lượng là một lĩnh vực

quan trọng của an ninh kinh tế quốc gia.

Nó trực tiếp ảnh hưởng đến an ninh quốc

gia và khả năng duy trì sự phát triển và

ổn định xã hội. Thuật ngữ an ninh năng

lượng xuất hiện trong hệ thống từ ngữ

hiện đại từ thập niên 50 của thế kỉ XX.

Trước đó, nguồn năng lượng chủ yếu

cung cấp cho các ngành công nghiệp là

than đá, do trữ lượng than đá dồi dào và

phân bố nhiều nơi, nền công nghiệp của

các nước Âu Mĩ thời gian này tiêu hao

năng lượng không nhiều nên nhu cầu

năng lượng vẫn còn được đảm bảo.

Từ thập niên 50 của thế kỉ XX trở

đi, khả năng cung ứng và nhu cầu năng

lượng của thế giới có nhiều thay đổi lớn

theo đà phát triển của nền công nghiệp

thế giới và cuộc sống nhân loại. Kết cấu

các nguồn năng lượng trên thế giới đã có

những chuyển biến rõ rệt, than đá chiếm

tỉ lệ 60% nguồn năng lượng ở thập niên

50 đã giảm xuống 24% vào năm 2000;

dầu mỏ và khí thiên nhiên lại tăng từ

37,4% lên 61% [9, tr.20].

pdf 12 trang kimcuc 16640
Bạn đang xem tài liệu "An ninh năng lượng thế giới những năm đầu thế kỉ XXI", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: An ninh năng lượng thế giới những năm đầu thế kỉ XXI

An ninh năng lượng thế giới những năm đầu thế kỉ XXI
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Minh Mẫn 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
AN NINH NĂNG LƯỢNG THẾ GIỚI 
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XXI 
NGUYỄN MINH MẪN* 
TÓM TẮT 
Trong những năm đầu thế kỉ XXI, năng lượng và an ninh năng lượng đã trở thành 
vấn đề quan tâm của toàn thế giới. Nhu cầu sử dụng năng lượng tăng trong khi trữ lượng 
ngày càng giảm đã làm cho tình hình năng lượng và an ninh năng lượng có nhiều biến 
động bất thường. Nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, một số nước đã đề ra chính 
sách an ninh năng lượng cho mình; trong đó, chính sách “ngoại giao năng lượng” bước 
đầu được một số nước áp dụng. 
Từ khóa: năng lượng, an ninh năng lượng, ngoại giao năng lượng. 
ABSTRACT 
The world’s energy security in the early years of XXI century 
In the early years of XXI century, energy and energy security have become the issues 
of global concern.The conflict between the increasing demand for use and the decline in 
energy reserves evokes inevitable fluctuations in this field. To ensure national energy 
security, some countries have strategically set security policies for their energy. As one 
of these policies, “energy diplomacy” has been initially applied in some countries. 
Keywords: energy, energy security, energy diplomacy. 
1. Khái niệm an ninh năng lượng 
An ninh năng lượng là một lĩnh vực 
quan trọng của an ninh kinh tế quốc gia. 
Nó trực tiếp ảnh hưởng đến an ninh quốc 
gia và khả năng duy trì sự phát triển và 
ổn định xã hội. Thuật ngữ an ninh năng 
lượng xuất hiện trong hệ thống từ ngữ 
hiện đại từ thập niên 50 của thế kỉ XX. 
Trước đó, nguồn năng lượng chủ yếu 
cung cấp cho các ngành công nghiệp là 
than đá, do trữ lượng than đá dồi dào và 
phân bố nhiều nơi, nền công nghiệp của 
các nước Âu Mĩ thời gian này tiêu hao 
năng lượng không nhiều nên nhu cầu 
năng lượng vẫn còn được đảm bảo. 
Từ thập niên 50 của thế kỉ XX trở 
đi, khả năng cung ứng và nhu cầu năng 
* ThS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM 
lượng của thế giới có nhiều thay đổi lớn 
theo đà phát triển của nền công nghiệp 
thế giới và cuộc sống nhân loại. Kết cấu 
các nguồn năng lượng trên thế giới đã có 
những chuyển biến rõ rệt, than đá chiếm 
tỉ lệ 60% nguồn năng lượng ở thập niên 
50 đã giảm xuống 24% vào năm 2000; 
dầu mỏ và khí thiên nhiên lại tăng từ 
37,4% lên 61% [9, tr.20]. Dầu mỏ dần 
thay thế than đá để thành nguồn năng 
lượng chủ yếu của nhân loại. Sau cuộc 
khủng hoảng dầu mỏ do chiến tranh năm 
1973, nguy cơ thiếu hụt dầu mỏ trở thành 
vấn đề quan trọng đối với các quốc gia 
phát triển. Năm 1974, Cơ quan năng 
lượng quốc tế (IEA) được thành lập, đề 
xuất khái niệm an ninh năng lượng với 
trọng tâm là ổn định nguồn cung ứng và 
giá cả dầu mỏ. 
 45
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 32 năm 2011 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
An ninh năng lượng tuy là một lĩnh 
vực mới, nhưng nội hàm an ninh năng 
lượng cũng theo đà phát triển kinh tế xã 
hội, những thay đổi giữa con người và 
thiên nhiên mà có những điều chỉnh nhất 
định. Thời gian đầu, an ninh năng lượng 
chỉ được hiểu một cách đơn giản là có 
nguồn cung cấp năng lượng ổn định, đảm 
bảo cho sự tồn tại và phát triển kinh tế 
một quốc gia. Ý nghĩa trên cho thấy tính 
ổn định của nguồn cung cấp trở thành 
mục tiêu cơ bản của an ninh năng lượng 
quốc gia. 
Từ thập niên 80 của thế kỉ XX trở 
đi, sự nóng dần lên của trái đất và sự thay 
đổi của khí hậu toàn cầu làm cho con 
người nhận thức được vấn đề quan trọng 
của môi trường đối với nhân loại. Các 
quốc gia phát triển dần thay đổi cách nhìn 
về an toàn năng lượng. Trong chiến lược 
phát triển năng lượng, các quốc gia đều 
tăng cường khái niệm sử dụng năng 
lượng an toàn; cho nên, sử dụng an toàn 
năng lượng trở thành vấn đề quan trọng 
tác động đến môi trường sinh thái của 
con người. Có thể nói, đến thời kì này, 
nội hàm an ninh năng lượng đã thay đổi, 
an ninh năng lượng được xem là vấn đề 
tồn tại song song với duy trì sự phát triển 
ổn định và bền vững. An ninh năng lượng 
đối với một quốc gia khu vực hiện nay 
phải gắn liền với duy trì phát triển kinh tế, 
tiến bộ xã hội và đảm bảo trạng thái môi 
trường. 
Hiện nay, khi nói đến an ninh năng 
lượng thì mọi người thường nghĩ đến an 
ninh dầu lửa. Thực tế cho thấy, từ sau 
thập niên 50 của thế kỉ XX, dầu lửa 
chiếm 61% các nguồn năng lượng mà 
con người sử dụng. Do đó, đối với các 
quốc gia trên thế giới, đảm bảo an ninh 
dầu lửa là một bộ phận quan trọng của 
đảm bảo an ninh năng lượng. 
Như vậy, thuật ngữ an ninh năng 
lượng hiện nay không đơn thuần là chỉ 
các nguồn cung cấp năng lượng (chủ yếu 
là dầu lửa) đảm bảo như những thập kỉ 
trước đây mà còn được hiểu một cách 
toàn diện, bao quát hơn là phải bảo đảm 
công tác bảo vệ môi trường, giá cả hợp lí 
và khả năng ứng phó với các tình huống 
khẩn cấp phát sinh từ các nhân tố kinh tế, 
chính trị bên trong và bên ngoài một quốc 
gia. Trong đó, giá cả hợp lí là mức giá 
dựa trên quy luật thị trường cơ bản, có 
tính đến nhu cầu, khả năng cung cấp và 
cách tiếp cận mà các quốc gia khác nhau 
sử dụng để giải quyết vấn đề năng lượng. 
2. Tình hình năng lượng thế giới và 
những biến động của an ninh năng 
lượng trong những năm gần đây 
2.1. Tình hình năng lượng thế giới 
Năm 1956, Viện Khoa học địa chất 
Hoa Kì đã dự báo sản lượng dầu mỏ của 
Hoa Kì sẽ đạt đến đỉnh cao vào thập niên 
60 hoặc 70 của thế kỉ XX, nhưng thực tế 
cho thấy sản lượng dầu của Hoa Kì đã sụt 
giảm từ đầu thập niên 70. Các nhà khoa 
học còn dự đoán với tốc độ tiêu hao dầu 
lửa như vậy thì đến cuối thế kỉ XX đầu 
thế kỉ XXI thế giới sẽ chính thức bước 
vào giai đoạn “khát dầu mỏ”. Dự đoán 
này đã được thực tế chứng minh. 
Thập niên 60-70 của thế kỉ XX, 
nguồn cung cấp dầu mỏ trên thế giới ổn 
định, theo đà phát triển của kĩ thuật thăm 
dò và khai thác, các mỏ dầu có trữ lượng 
lớn được phát hiện ngày càng nhiều, vượt 
 46 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Minh Mẫn 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
cả nhu cầu sử dụng của các quốc gia trên 
thế giới. 
Từ năm 1971 đến năm 1996, tổng 
sản lượng dầu mỏ toàn thế giới là 806,4 tỉ 
tấn, nhưng trữ lượng mới chỉ đạt 1610 tỉ 
tấn. Trữ lượng dầu mỏ thăm dò từ 729,4 
tỉ tấn (năm 1971) tăng lên 1567 tỉ tấn 
(năm 20031). Căn cứ thống kê của Tạp 
chí Dầu khí Hoa Kì, vào thời điểm tháng 
1 năm 2004, trữ lượng thăm dò khai thác 
dầu mỏ thế giới là 1733,99 tỉ tấn, trong 
đó trữ lượng của Canada chiếm 245,06 tỉ 
tấn, đứng thứ 2 trên thế giới. Ngoài ra, 
theo thống kê của Công ti Dầu khí Anh 
Quốc (BP), trữ lượng khí thiên nhiên 
thăm dò của thế giới tăng từ 926 800 tỉ 
tấn (năm 1983) lên 1 750 780 tỉ tấn (năm 
2003), tăng gần gấp đôi trong vòng 20 
năm. Năm 2000, Cục Điều tra Địa chất 
Hoa Kì đã công bố đánh giá mới nhất về 
sản lượng khí thiên nhiên; cho thấy 
nguồn năng lượng này hiện chiếm 12% 
năng lượng toàn cầu. 
Về khai thác dầu mỏ, trình độ khai 
thác các giếng dầu chỉ đạt tỉ lệ 60-80%, 
các giếng dầu khai thác lần thứ nhất 
chiếm khoảng 15%, các giếng dầu khai 
thác lần thứ hai chiếm khoảng 30%, còn 
khoảng 70-85% giếng dầu chưa được 
khai thác. Các nhà hoạch định chính sách 
dầu mỏ cũng chỉ ra trong vòng 5-10 năm 
nữa các giếng dầu (DOFF) sẽ cung cấp 
trữ lượng 1250 tỉ thùng dầu2 cho thế giới. 
Theo báo cáo của IEA3, năm 2002, mỗi 
ngày thế giới tiêu thụ hết 78 triệu thùng 
dầu. Đến 2015 con số đó sẽ là 103 triệu 
thùng/ngày và 2025 sẽ là 119 triệu 
thùng/ngày. Nếu lấy trữ lượng toàn thế 
giới chia cho nhu cầu các thời điểm trên 
thì dầu lửa chỉ đáp ứng nhu cầu của nhân 
loại đến năm 2050. [2, tr.5] 
Sản lượng dầu mỏ hiện nay chủ yếu 
tập trung ở các nước thành viên của 
OPEC4. Năm 2003, sản lượng dầu mỗi 
ngày của các nước thành viên OPEC tăng 
1,88 triệu thùng, với tổng sản lượng mỗi 
năm đạt 14,67 tỉ tấn, tăng 6,6% so với 
năm 2002 và tăng 12,6% so với năm 
1993, chiếm 39,7% tổng sản lượng dầu 
toàn thế giới. Trong đó, Arab Saudi cung 
cấp sản lượng dầu mỗi ngày 9,817 triệu 
thùng. Các quốc gia khác trong tổ chức 
OPEC cũng có khả năng cung cấp từ 500 
nghìn đến 1 triệu thùng dầu ngày. Do đó, 
những biến động giá cả của tình hình dầu 
mỏ thế giới đều chịu ảnh hưởng từ sản 
lượng các nước trong khối OPEC. 
Các nước không nằm trong tổ chức 
OPEC tăng trưởng có hạn, năm 2003 các 
nước này có sản lượng dầu mỏ mỗi ngày 
đạt 830 nghìn thùng dầu. Trong đó, Liên 
bang Nga giữ vai trò quan trọng với tốc 
độ khai thác tăng 11% mỗi năm và chiếm 
tỉ lệ 11,4% sản lượng dầu thế giới. Ngoài 
ra, sản lượng dầu của các quốc gia nằm 
trong tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế 
(OECD) đang có xu hướng giảm dần. 
Các nước có sản lượng dầu mỏ giảm 
nhiều nhất là Anh với 220 nghìn thùng 
mỗi ngày, tiếp đến là Mĩ 170 nghìn thùng 
mỗi ngày. Chỉ có Mexico và Canada là 
hai quốc gia có sản lượng dầu tăng 
trưởng với sản lượng 100 nghìn thùng 
ngày. Theo thống kê mới nhất của IEA, tỉ 
lệ sản xuất dầu của tất cả các khu vực 
trên thế giới đều có sự thay đổi theo từng 
năm, điều này chứng tỏ nhu cầu dầu lửa 
của thế giới cũng thay đổi theo thời gian. 
 47
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 32 năm 2011 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
Tổng số giá trị dầu lửa của từng nhóm quốc gia [10, tr.14] 
Đơn vị: tỉ đôla 
Khu vực 2006 2010 2015 2020 2025 2030 
Tỉ lệ thay đổi 
trung bình 
hàng năm 
OECD 35,221 37,133 42,403 47,466 52,996 59,264 2,2 
Bắc Mĩ 15,331 16,073 18,789 21,341 24,283 27,802 2,5 
Châu Âu 14,224 15,015 16,839 18,811 20,894 23,105 2,0 
Châu Á 5,667 6,045 6,775 7,314 7,819 8,357 1,6 
Không 
phải 
OECD 
24,717 31,723 41,529 52,907 65,062 78,220 4,9 
Châu 
Âu-lục 
địa Âu Á 
3,159 3,940 4,865 5,725 6,536 7,381 3,6 
Châu Á 13,408 17,934 24,606 32,726 41,428 50,834 5,7 
Trung 
Đông 2,053 2,484 3,030 3,621 4,300 5,102 3,9 
Châu Phi 2,341 2,870 3,612 4,384 5,182 5,958 4,0 
Trung và 
Nam Mĩ 3,757 4,495 5,415 6,450 7,615 8,945 3,7 
Tổng số 
trên thế 
giới 
59,939 68,856 83,932 100,373 118,058 137,484 3,5 
Bên cạnh đó, nhu cầu khí đốt thiên 
nhiên của thế giới cũng tăng mạnh. Theo 
báo cáo năm 2009, EIA đã dự báo nhu 
cầu khí đốt thiên nhiên năm 2010 sẽ tăng 
gấp đôi so với nhu cầu năm 2006. Các 
nước có trữ lượng khí thiên nhiên lớn 
như Nga, Mĩ, Nigeria đang cắt dần các 
khoản xuất khẩu để đảm bảo an ninh 
quốc gia. Một phần lớn khí đốt thiên 
nhiên được dùng để sản xuất điện do hiệu 
quả sử dụng của nó cao hơn các loại 
nguyên liệu khác và không làm tăng hiệu 
ứng nhà kính. Theo dự báo của IEA, 
lượng khí đốt trên toàn thế giới chỉ còn 
khả năng cung cấp cho nhu cầu nhân loại 
thêm 60 năm nữa. 
Theo báo cáo “Triển vọng năng 
lượng thế giới năm 2004” của IEA, trong 
vòng 10 trở lại đây sản lượng sử dụng khí 
thiên nhiên đã vượt qua sản lượng sử 
dụng than đá. Đến năm 2030, sản lượng 
sử dụng khí thiên nhiên toàn cầu sẽ có 
thay đổi lớn [1, tr.108-109]. Theo cơ 
quan năng lượng quốc gia Mĩ, khí thiên 
nhiên là nguồn năng lượng có tốc độ tăng 
trưởng nhanh nhất, từ năm 2001 đến năm 
2025, sản lượng khí thiên nhiên tăng 
trưởng 67%, dự báo đến 2025 sẽ đạt đến 
 48 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Minh Mẫn 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
4,28 tỉ mét khối, tăng 12% so với sản 
lượng than đá. 
Nhu cầu về than đá của các quốc 
gia phát triển trên thế giới trong những 
năm gần đây cũng tăng cao. Ngoại trừ 
khu vực Tây Âu đang có xu hướng 
chuyển sang sử dụng khí đốt thiên nhiên 
để sản xuất điện, các quốc gia còn lại đều 
có nhu cầu cao về than đá để phục vụ cho 
nền công nghiệp của nước mình. Hai 
quốc gia có nhu cầu than đá nhiều nhất là 
Trung Quốc và Ấn Độ với 72% nhu cầu 
gia tăng than đá thế giới và 87% nhu cầu 
than đá của các quốc gia đang phát triển. 
Theo thống kê của IEA, trữ lượng than đá 
trên toàn thế giới khoảng trên dưới 1000 
tỉ tấn, đủ khả năng cung cấp cho nhu cầu 
con người trong vòng 200 năm nữa. 
Than đá là nguyên liệu chủ yếu của 
công nghiệp điện lực và sản xuất gang 
thép. Trước mắt, trên phạm vi toàn cầu 
công nghiệp điện lực và sản xuất gang 
thép vẫn giữ vai trò chủ yếu trong các 
ngành công nghiệp nặng. Ở hầu khắp các 
khu vực, than đá được dùng chủ yếu để 
sản xuất điện, chiếm tỉ trọng 37% nguyên 
liệu tạo ra điện. Trước nhu cầu sử dụng 
điện ngày càng tăng cao, áp lực về sản 
lượng than đá trong những năm tới sẽ là 
rất lớn đối với ngành công nghiệp khai 
khoáng của thế giới. 
Để đáp ứng nhu cầu năng lượng, 
con người đã khai thác quá mức các 
nguồn năng lượng truyền thống như dầu 
lửa, khí thiên nhiên, than đá Sự cạn 
kiệt của các nguồn năng lượng là điều 
không tránh khỏi trong tương lai. Nhưng 
trước mắt, năng lượng không ngừng tác 
động đến cuộc sống con người dưới 
nhiều góc độ khác nhau - trong đó có lĩnh 
vực kinh tế. 
2.2. Những biến động của an ninh 
năng lượng trong những năm gần đây 
Sự phân bố không đồng đều trữ 
lượng dầu mỏ giữa các quốc gia làm cho 
vấn đề an ninh năng lượng trở nên phức 
tạp. Theo thống kê, ba khu vực có trữ 
lượng dầu mỏ nhiều nhất thế giới là 
Trung Đông - Bắc Phi, Trung Á và Bắc 
Mĩ chiếm 82,3% trữ lượng dầu mỏ thế 
giới. Trong đó trữ lượng của khu vực 
Trung Đông chiếm 64%; tỉ lệ của châu 
Mĩ, châu Phi, Nga và khu vực châu Á - 
Thái Bình Dương lần lượt là 14%, 7%, 
4,8% và 4,27% [8, tr.10]. Từ sau chiến 
tranh thế giới thứ hai đến nay, hầu hết 
các khu vực sản xuất dầu mỏ lớn đều 
nằm trong tầm kiểm soát của Mĩ, mặt 
khác Mĩ cũng là quốc gia sử dụng dầu 
mỏ nhiều nhất với 50% lượng dầu xuất 
khẩu trên thế giới. Hiện nay, việc kiểm 
soát xuất khẩu dầu mỏ là rất quan trọng, 
đặc biệt là Trung Đông, khu vực này có 
ảnh hưởng lớn đến nhiều quốc gia trên 
thế giới, trong đó có Trung Quốc. 
Mĩ và Trung Quốc đang cố tìm 
cách gây ảnh hưởng tại châu Phi, nơi có 
trữ lượng dầu mỏ đứng thứ 2 trên thế giới 
chỉ sau khu vực Trung Đông, Trung Á và 
châu Mĩ. châu Phi trở thành “miếng mồi 
ngon” giữa Mĩ và Trung Quốc khi sản 
lượng tại đây hứa hẹn dồi dào hơn so với 
các khu vực truyền thống, mặt khác hàm 
lượng sunphua trong dầu thô ở châu Phi 
tương đối thấp nên rất có giá trị khi xuất 
khẩu. Sự “chạy đua” tìm kiếm nguồn 
 49
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 32 năm 2011 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
năng lượng giữa Mĩ và Trung Quốc làm 
cho tình hình chính trị trên thế giới thêm 
phức tạp và dẫn đến diễn biến của an 
ninh năng lượng trong những năm gần 
đây. 
Thực tế cho thấy, nhu cầu năng 
lượng toàn cầu gia tăng từng ngày nhưng 
không đồng đều giữa các quốc gia và 
ngành công nghiệp. Nhu cầu năng lượng 
lớn nhất thuộc về các quốc gia đang phát 
triển, chiếm khoảng 2/3 nhu cầu năng 
lượng thế giới. Trong nhóm này Trung 
Quốc đứng đầu về nhu cầu dầu lửa. Dự 
báo cho thấy đến năm 2010 Trung Quốc 
phải nhập 5 triệu thùng dầu mỗi ngày, 
nguồn cung cấp dầu mỏ trong nước khan 
 ... c - Nhật Bản; thứ ba, 
từ Đông Nam Á - eo biển Malacca - eo 
biển Đài Loan - Trung Quốc - Nhật Bản. 
Trong những năm gần đây, eo biển 
Malacca được xem là khá “nóng” với sự 
hoạt động của các nhóm hải tặc, nếu như 
eo biển này bị phong tỏa trong thời gian 
ngắn do những sự kiện bất ngờ thì kinh tế 
Trung Quốc và Nhật Bản sẽ bị ảnh hưởng 
đầu tiên, bởi gần 90% lượng dầu nhập 
khẩu của hai nước này đi qua ba tuyến 
đường trên. 
Những nhân tố vừa nêu đều ảnh 
hưởng ít nhiều đến những biến động của 
an ninh năng lượng trong những năm gần 
đây. Những nhân tố này, dù trực tiếp hay 
gián tiếp đều tác động đến kinh tế - chính 
trị thế giới, trong các báo cáo của IEA 
hàng năm, tổ chức này đều cảnh báo thế 
giới vẫn đối mặt với nguy cơ khủng 
hoảng dầu lửa tiềm ẩn. Những biến động 
và nguy cơ từ an ninh năng lượng, buộc 
các quốc gia phải có chính sách điều 
chỉnh cơ cấu sử dụng năng lượng hợp lí, 
đồng thời tăng cường hợp tác đầu tư trên 
lĩnh vực năng lượng nhằm đảm bảo 
 51
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 32 năm 2011 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
nguồn cung cấp năng lượng ổn định, bền 
vững trong hiện tại và tương lai. 
2.3. Sự xuất hiện của chính sách ngoại 
giao năng lượng trong quan hệ quốc tế 
Hiện nay, dầu mỏ đã trở thành một 
loại năng lượng mang tính chiến lược, là 
“nguồn máu” nuôi sống ngành công 
nghiệp, an ninh của nó gắn liền với cuộc 
sống và an toàn của một quốc gia. Trên 
thực tế, dầu mỏ đã trở thành một “thương 
phẩm mang tính chính trị chiến lược” [2, 
tr.31], các quốc gia đang cố gắng tranh 
giành nguồn tài nguyên này để đảm bảo 
an ninh quốc gia, thậm chí một số chính 
trị gia đã tuyên bố “ai chiếm được dầu 
mỏ, cũng có nghĩa là được cả thế giới”. 
Các nước lớn trên thế giới như Mĩ, Trung 
Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản và các 
nước thuộc EU đều tìm mọi cách gây ảnh 
hưởng hoặc liên doanh hợp tác trên lĩnh 
vực năng lượng với những khu vực, quốc 
gia có trữ lượng dầu mỏ lớn như Trung 
Đông, Trung Á, Bắc Phi, Mĩ La-tinh 
Thế giới đang chứng kiến cuộc chạy đua 
ngoại giao dầu lửa giữa các nước lớn làm 
cho quan hệ quốc tế thêm phức tạp và đa 
dạng. 
Các nước có nhu cầu cao về năng 
lượng đang tiến hành ngoại giao song 
phương hoặc đa phương với các khu vực, 
quốc gia có tiềm năng dầu lửa dồi dào đã 
góp phần làm rõ khái niệm ngoại giao 
năng lượng hay ngoại giao dầu lửa trong 
quan hệ quốc tế. Các chuyến ngoại giao 
con thoi của nguyên thủ các nước lớn 
như Trung Quốc, Mĩ, Nhật Bản, Nga, Ấn 
Độ đến Trung Đông, Trung Á, châu Phi 
càng làm cho đời sống chính trị thế giới 
trở nên nhộn nhịp. Ở lĩnh vực này, Trung 
Quốc là một ví dụ điển hình. Các nhà 
lãnh đạo Trung Quốc đã đề ra chính sách 
“đi ra ngoài” để tìm kiếm nguồn dầu lửa 
đảm bảo cho việc phát triển kinh tế đất 
nước. Nguyên Thủ tướng Lý Bằng trong 
“Chính sách năng lượng Trung Quốc” đã 
chỉ rõ: “Phát triển công nghiệp dầu lửa 
phải đáp ứng nhu cầu trong nước, đi ra 
thế giới, lợi dụng tốt hai nguồn năng 
lượng, hai thị trường. Trên nguyên tắc 
bình đẳng cùng có lợi, tham gia tích cực 
vào các loại hình hợp tác với các quốc 
gia, khu vực, tham gia tìm kiếm khai thác 
với các quốc gia khu vực trên thế giới, 
xây dựng được thị trường nhập khẩu ổn 
định, đảm bảo nguồn cung ứng cho quốc 
gia” [2, tr.56]. Trên cơ sở đó, từ ngày 31 
tháng 8 đến ngày 01 tháng 9 năm 2004, 
Quốc vụ viện Trung Quốc đã khai mạc 
Hội nghị toàn quốc tại Bắc Kinh với 
nhiệm vụ bàn về công tác đối ngoại kinh 
tế để phát triển Trung Quốc, Thủ tướng 
Ôn Gia Bảo đã đưa ra phương châm: 
“dựa trên cơ sở xu thế phát triển kinh tế 
chính trị thế giới, tình hình phát triển 
kinh tế xã hội trong nước, chiến lược 
công tác đối ngoại, đẩy mạnh hơn nhận 
thức tính quan trọng của công tác đối 
ngoại kinh tế”5. Nguyên tắc chỉ đạo này 
đã thúc đẩy chính sách ngoại giao năng 
lượng của Trung Quốc phát triển sang 
giai đoạn mới. Trong năm 2004, các nhà 
lãnh đạo Trung Quốc như Hồ Cẩm Đào, 
Ngô Bang Quốc, Ôn Gia Bảo, Giả Khánh 
Lâm, Tăng Khánh Hồng, Hoàng Cúc lần 
lượt thăm 32 quốc gia, bao gồm châu Á 
(Việt Nam, Lào, Malaysia, Indonesia, 
 52 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Minh Mẫn 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
Pakistan), Trung Đông (kuwait, Iran, 
Arab Saudi, Aman), châu Âu (Nga, Anh, 
Hà Lan), Trung Á (Kazakhstan, 
Kyrgyzstan, Azerbaijan), châu Phi 
(Sudan, Nigieria, Kenia, Gabong), Nam 
Mĩ (Venezuela, Peru, Brasil, Chile..) 
với mục tiêu chủ yếu là thiết lập quan hệ 
hợp tác chiến lược trên lĩnh vực năng 
lượng. Một mặt, Trung Quốc mở rộng 
hợp tác với các đối tác mới như châu Phi, 
Nam Mĩ, Trung Á, mặt khác vẫn duy trì 
quan hệ với các đối tác truyền thống như 
Trung Đông, Nga, ASEAN nhằm thực 
hiện mục tiêu đã đề ra trong chiến lược 
năng lượng. 
Không những đóng vai trò quan 
trọng với từng quốc gia, năng lượng còn 
trở thành vấn đề quan trọng đối với các 
hội nghị mang tính khu vực và quốc tế. 
Trong những năm gần đây, tại các cuộc 
họp thường niên, vấn đề dầu lửa và giá 
dầu đã trở thành nội dung nghị sự chính 
của các nước trong nhóm G8. Trong cuộc 
họp năm 2006 tại St. Petersburg (Nga) 
ngày 16-7 an ninh năng lượng đã trở 
thành vấn đề được các nước thành viên 
quan tâm nhất. Trong cuộc họp ngày 7-6-
2008 diễn ra tại Aomori, Nhật Bản, năm 
nước sử dụng năng lượng lớn là Mĩ, 
Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn 
Quốc yêu cầu các nước sản xuất dầu tăng 
sản lượng để kiểm soát giá dầu. 
Các tổ chức mang tính khu vực 
khác thì bổ sung vấn đề an ninh năng 
lượng và hợp tác trong lĩnh vực năng 
lượng vào chương trình hoạt động của 
mình. Với vị trí là khu vực có tốc độ phát 
triển kinh tế thuộc loại cao ở châu Á, 
trong những năm gần đây, các nước 
thành viên ASEAN đã xem năng lượng 
và an ninh năng lượng là vấn đề quan 
trọng bậc nhất trong chiến lược phát triển 
toàn diện của mình. Sự quan tâm này đã 
được thể hiện rõ nét qua Hiệp định an 
ninh dầu mỏ khu vực ASEAN (APSA). 
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - 
Thái Bình Dương (APEC) đã đưa an ninh 
năng lượng trở thành vấn đề cần hợp tác 
giữa các nước thành viên. Năm 2000 
“Sáng kiến an ninh năng lượng APEC” 
(AESI) đã được các nước thành viên 
thông qua với bốn nội dung chính: chia 
sẻ thông tin về tình hình dầu mỏ; đảm 
bảo an ninh vận tải đường biển; chia sẻ 
thông tin trong các trường hợp khẩn cấp; 
đáp ứng trong các trường hợp khẩn cấp 
về năng lượng và những kế hoạch dài hạn. 
Khối APEC đã thành lập nhóm công tác 
về năng lượng để theo dõi, điều phối vấn 
đề năng lượng trong các nước thành viên. 
Ngoài ra, Hội nghị bộ trưởng năng lượng 
các nước thành viên APEC cũng diễn ra 
thường xuyên để trao đổi thông tin và tìm 
ra giải pháp cho vấn đề hợp tác trên lĩnh 
vực năng lượng. 
Để thực hiện được mục tiêu của 
ngoại giao năng lượng, các nước có nhu 
cầu lớn về năng lượng đã sử dụng các 
nguồn Viện trợ phát triển chính thức 
(ODA) làm công cụ để thu hút các nước 
có trữ lượng lớn nhưng nền kinh tế còn 
chậm phát triển. Thái độ của Trung Quốc 
đối với châu Phi là một điển hình. Những 
mỏ dầu có trữ lượng lớn được phát hiện ở 
châu Phi những năm gần đây làm cho cả 
thế giới đổ dồn sự quan tâm về châu lục 
 53
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 32 năm 2011 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
này sau một thời gian dài bị quên lãng. 
Thông qua nguồn vốn ODA, các nước 
lớn và Trung Quốc muốn dùng đòn bẩy 
kinh tế nhằm đảm bảo sự trung thành và 
lòng tin của các nước châu Phi về vấn đề 
cung ứng dầu mỏ trong hiện tại cũng như 
tương lai. Để cụ thể hóa hơn cho chiến 
lược “châu Phi”, từ ngày 30-01 đến 10-
02-2007, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào của 
Trung Quốc đã công du tám nước châu 
Phi bao gồm Cameroon, Libia, Sudan, 
Zambia, Namibia, Nam Phi, Modambic 
và Seychelles. Trong các cuộc gặp gỡ cấp 
cao giữa lãnh đạo Trung Quốc và lãnh 
đạo tám nước châu Phi, Trung Quốc cam 
kết sẽ đẩy nhanh và mạnh nguồn vốn 
ODA cho tám nước này; ngược lại, tám 
nước sẽ tạo điều kiện để Trung Quốc đầu 
tư trong các lĩnh vực kinh tế, trong đó có 
thăm dò và khai thác dầu mỏ, khí đốt. 
Dầu mỏ đã trở thành món hàng để các 
nước thực hiện các cuộc trao đổi, mua 
bán trên lĩnh vực chính trị. Trước sự hiện 
diện ngày càng sâu và rộng của Trung 
Quốc tại “lục địa đen”, Mĩ và Tây Âu 
cũng đẩy mạnh những hoạt động ngoại 
giao ở châu Phi vì không muốn mất 
quyền lợi năng lượng trong tương lai khi 
các nguồn cấp năng lượng ở các khu vực 
truyền thống có nguy cơ giảm dần trong 
tương lai. Như vậy, ngoại giao năng 
lượng của các nước lớn bao gồm hai nội 
dung cơ bản: thứ nhất, là hành động đảm 
bảo cho nguồn cung cấp, vận chuyển, 
tiêu dùng năng lượng của quốc gia và 
làm lợi cho nền kinh tế; thứ hai, hành 
động ngoại giao năng lượng cũng đại 
diện cho một nhân tố chính trị nào đó, do 
đó vấn đề năng lượng bị lợi dụng, trở 
thành công cụ cho mục đích ngoại giao. 
[11, tr.60] 
Dầu mỏ và khí đốt làm xuất hiện và 
tập hợp các lực lượng mới, hình thành 
quan hệ đối tác chiến lược và những liên 
minh kinh tế - chính trị trên thế giới. 
Hiện nay, ngoài Tổ chức các nước xuất 
khẩu dầu mỏ (OPEC) ra đời từ năm 1960, 
nền chính trị thế giới đang dần hình thành 
những liên minh kinh tế - chính trị mới 
mà dầu mỏ và khí đốt chính là hạt nhân 
nối kết. Tổ chức hợp tác Thượng Hải 
(SCO) bao gồm: Nga, Kazakhstan, 
Kyrgyzstan, Tajikistan, Trung Quốc và 
Uzbekistan và 4 nước thành viên là Iran, 
Pakistan, Mông Cổ, Ấn Độ là một ví dụ 
điển hình. Nếu cộng tất cả trữ lượng dầu 
mỏ của các nước thành viên thì SCO 
đang nắm trong tay 25% trữ lượng dầu 
mỏ và khí đốt toàn cầu, với tỉ lệ này thì 
SCO hoàn toàn có thể chi phối và tác 
động đến giá cả dầu lừa trên phạm vi 
toàn cầu. 
Tại khu vực Nam Mĩ, Venezuela 
cũng đang đề xuất thành lập hai liên minh 
dầu mỏ là PetroCaribe (cho các nước 
vùng Caribe) và PetroSur (cho khu vực 
Nam Mĩ). Sự gắn kết này còn được củng 
cố vì trong tương lai dự án xây dựng 
đường ống dẫn dầu từ Venezuela đến 
Argentina sẽ được khởi công. Những 
động thái này, ngoài mục tiêu kinh tế ra, 
các nước Mĩ La-tinh còn muốn thoát ra 
khỏi sự kiềm kẹp của Mĩ trong một thời 
gian dài. 
Như vậy, trong những năm đầu thế 
kỉ XXI năng lượng và an ninh năng 
 54 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Minh Mẫn 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
lượng đã trở thành vấn đề quan trọng 
trong chiếc lược phát triển kinh tế - chính 
trị - xã hội của các quốc gia trên thế giới. 
Sự mất cân bằng trong kết cấu năng 
lượng thế giới đã dẫn đến sự mất cân 
bằng trong khai thác, sử dụng năng lượng 
của các quốc gia. Trước mắt, dầu lửa và 
khí đốt vẫn là hai nguồn năng lượng chủ 
yếu cung cấp cho tất cả mọi hoạt động 
kinh tế - xã hội mỗi nước. Với vai trò đó, 
năng lượng sẽ tiếp tục tác động đến quan 
hệ quốc tế và bàn cờ chính trị thế giới. 
Những quan hệ phức tạp, đan xen, chồng 
chéo lẫn nhau ở lĩnh vực quan hệ quốc tế 
đều liên quan đến vấn đề năng lượng. 
Các quốc gia phát triển và đang phát triển 
đang cần một nguồn cung cấp năng lượng 
bền vững, ổn định với giá cả hợp lí, trong 
khi đó các quốc gia sở hữu trữ lượng 
năng lượng lớn thì đang sử dụng chúng 
như một công cụ để trao đổi về mặt chính 
trị. Nhân tố này đã góp phần hình thành 
một khái niệm mới trong quan hệ quốc tế 
- ngoại giao năng lượng, mặc dù hình 
thành tương đối muộn nhưng ảnh hưởng 
của khái niệm này vượt xa về quy mô, 
tính chất và ảnh hưởng so với các lĩnh 
vực ngoại giao truyền thống. Nói một 
cách hình ảnh, năng lượng đang là 
“nguồn dinh dưỡng” nuôi sống toàn thế 
giới và với sự phong phú đa dạng các 
mối quan hệ kinh tế - chính trị liên quan 
đến vấn đề năng lượng, trong tương lai 
gần năng lượng và an ninh năng lượng sẽ 
trở thành bài toán khó cho từng quốc gia 
và cho cả nhân loại. 
Mặt khác, vấn đề năng lượng và an 
ninh năng lượng đã trở thành vấn đề thực 
tiễn đang thu hút sự chú ý của chính giới 
và các nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế. 
Trước diễn biến ngày càng phức tạp của 
tình hình năng lượng toàn cầu, năng 
lượng đã, đang và sẽ trở thành nhân tố 
chi phối nền kinh tế - chính trị thế giới. 
Nghiên cứu vấn đề năng lượng và an ninh 
năng lượng trở thành hoạt động mang ý 
nghĩa thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. 
Đối với các quốc gia đang phát triển việc 
hoạch định chính sách năng lượng và an 
ninh năng lượng không những có ý nghĩa 
trong giai đoạn hiện nay mà còn mang 
tính chiến lược trong tương lai. Dựa trên 
điều kiện thực tế của nền kinh tế và đặc 
điểm chính trị, các nước lớn đang hoạch 
định chính sách an ninh năng lượng phù 
hợp với chính sách đối nội và đối ngoại 
của quốc gia mình. 
1 BP (Công ty dầu khí Anh Quốc) 2004, Statistical Review of World Energy, trang 4. 
2 Thùng dầu (barrel) là đơn vị quốc tế sử dụng trên thị trường dầu mỏ thế giới, một thùng dầu bằng 158,97 lít. 
3 IEA: Cơ quan Năng lượng quốc tế (International Energy Agency) là cơ quan được Tổ chức hợp tác và phát 
triển kinh tế (OECD) thành lập trong thời gian khủng hoảng dầu lửa 1973 với nhiệm vụ điều phối việc cung 
ứng dầu lửa trong các tình huống khẩn cấp cho các thành viên. 
4 OPEC: Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ. 
5 Bài phát biểu khai mạc của Thủ tướng Ôn Gia Bảo trong Hội nghị toàn quốc về công tác đối ngoại kinh tế 
tổ chức tại Bắc Kinh, được đăng trên Nhân dân nhật báo ngày 3 tháng 9 năm 2004. 
 55
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 32 năm 2011 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trần Phụng Anh (2004), Điều tra chiến lược năng lượng quốc tế, Nxb Thời sự, Bản 
tiếng Hoa. 
2. Trần Phụng Anh (2005), Bàn cờ năng lượng thế giới, Nxb Thời sự, Bản tiếng Hoa. 
3. Trịnh Cường (2005), “Kinh tế thế giới trước “cú sốc” dầu và cuộc đua tìm nguồn 
năng lượng thay thế”, Tạp chí Cộng sản, (22). 
4. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Kim Lai (2005), Những vấn đề toàn cầu trong thời đại ngày 
nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
5. Ngô Đức Lân (2005), “An ninh năng lượng quốc gia vấn đề cần quan tâm”, Tạp chí 
Công nghiệp tiếp thị, (12). 
6. Trần Trọng (2005), “Dầu mỏ và những biến động trong quan hệ quốc tế”, Tạp chí 
Cộng sản, (13). 
7. Nguyễn Anh Tuấn (2006), “An ninh dầu lửa: Vấn đề và giải pháp tại các nước Đông 
Nam Á”, Những vấn đề kinh tế thế giới, (5). 
8. Thông tấn xã Việt Nam (2005), “Quan hệ Trung - Nhật: nóng về kinh tế, lạnh về 
chính trị”, Tài liệu tham khảo (1). 
9. Commission of the European Communities (2006), A European Strategy for 
Sustainable, Competitive and Secure Energy, Brussels. 
10. Energy Information Administration (2006), International Energy Outlook 2006, 
DOE/EIA-0484-June. 
11. Stanislav Z.Zhiznin (2005), Chính trị và ngoại giao năng lượng quốc tế, Nxb Đại 
học Sư phạm Hoa Đông. Bản tiếng Hoa. 
12. U.S-China economic and security review commission (2003), U.S. Gorvernment 
Printing Office, Washington D.C. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 14-8-2011; ngày chấp nhận đăng: 24-10-2011) 
 56 

File đính kèm:

  • pdfan_ninh_nang_luong_the_gioi_nhung_nam_dau_the_ki_xxi.pdf